Ba Viên Ngọc Quý
Thánh Tri
Trong thế giới vật lý, ngọc quý là vật
do thiên nhiên tạo hóa, hiếm có, và vì thế có giá trị ở mặt đồng tiền, thẩm mỹ
và quý hiếm. Song, những việc thuộc thế giới vật lý dù có giá trị đến đâu cũng
có giới hạng của chúng ở trong vòng tương đối. Hơn thế nữa, ngọc quý cũng chẳng
khác gì là đất đá vô tri, chúng không hề tự cho chúng có giá trị gì và tác hại
gì cho nhân loại, chẳng qua là tâm hư vọng của con người dựng lập cho những
viên ngọc ấy có giá trị khác nhau theo một hệ thống nào đó mà thôi. Một khi tâm
con người đã kiến lập những khái niệm về giá trị của những viên ngọc ấy thì những
tâm tham, sân, si lần lược trổi dậy. Cũng chính vì thế mà có sự tranh dành cướp
đoạt lẫn nhau, mang đến những chết chóc, hận thù, khổ đau cho mình và người. Vậy
thử hỏi những viên ngọc quý ấy có giá trị đích thật chung cùng gì cho mình, người,
và toàn thể nhân loại? Chưa kể là người và vật đều bị chi phối bởi vô thường,
khổ, vô ngã. Không có gì sanh mà không diệt, ngọc quý dù có giá trị đến đâu cũng
có ngày hủy diệt, người có sống lâu đến đâu cũng có ngày chết mất, một khi bị hủy
diệt và chết đi thì chẳng có gì đem theo được. Vậy khổ tâm lãng phí cả một đời
tìm kiếm đua tranh những viên ngọc quý vô tri vô giác bên ngoài ấy để làm gì? Và
chẳng phải đó là sự minh chứng rõ ràng về nguồn góc của sự khổ đau là ở tại
lòng mình tạo ra tất cả đó hay sao?
Khi khởi tâm dựng lập một điều gì thì
con người chúng ta đã bị giam cầm trong tâm tham, sân, và si của chính mình, cũng
như chôn vùi viên ngọc quý bên trong lòng đất tâm sâu thẳm của chính mình rồi vậy.
Một khi đã chạy theo ngọc giả tức thì đánh mất ngọc thật. Mỗi người ai cũng có
viên ngọc quý nơi mình. Viên ngọc quý nầy được Kinh Phật ẩn dụ cho Tự Tánh Giác
hay Tâm Thanh Tịnh Bản Nhiên nơi mỗi người, xưa nay nó không sinh không diệt,
không nhơ không sạch, không thêm không bớt. Viên ngọc nầy được Kinh Pháp Hoa đề
cập đến trong câu chuyện người ăn mày có viên ngọc quý trong túi áo mà không biết,
phải chịu kiếp lang thang nghèo nàng nay đây may đó. Ngọc quý ấy ở đâu? Tại sao
ta không thấy nó? Thế nào là giá trị của viên ngọc quý ấy? Tại sao nhận được
viên ngọc quý ấy thì hết kiếp cùng khổ? Chính mình cần phải nghiền ngẫm khám
phá mới được.
Thuở xưa vào thời nhà Đường bên Trung Quốc,
có ngài Huệ Hải đến cầu pháp nơi Tổ Sư Mã Tổ.
Mã Tổ hỏi: “Đến đây cầu việc gì?”
Đáp: “Cầu Phật pháp”.
Mã Tổ bảo: “Kho báu nhà mình không chịu nhận, mà lo đến người cầu cái gì?”
Huệ Hải hỏi: “Thế nào là kho báu nhà mình của Huệ Hải?”
Mã Tổ dạy: “Chính cái ông hỏi ta đó là kho báu của ông, đầy đủ không thiếu sót”.
Cái mà đang hỏi Mã Tổ ấy là cái gì? Cần
phải thấu triệt thì mới nhận được kho báu đầy đủ không thiếu sót vậy. Nếu như
không nhận ra mà còn ở trên vọng thức tìm cầu kiến giải thì tự chôn vùi kho báu
nhà mình thêm nhiều lớp nữa, mãi mãi sẽ không thể não thấu triệt và nhận được
kho báu ấy, và phải chịu làm người cùng khổ như Kinh Pháp Hoa đã nói.
Chính mỗi người cần phải nhận ra Viên Ngọc
Quý hay Kho Báu nơi mình. Chính mỗi người cần phải nổ lực để thấy Tự Tâm Bổn
Tánh nơi mình. Không ai có thể thay thế mình làm việc nầy được. Phật là bậc đạo
sư của trời người, chỉ có thể là người chỉ đường dẫn lối cho mình mà thôi.
Chính mình phải nổ lực đi thẳng (trực tâm) thì mới có ngày triệt ngộ Bản Tâm,
hay thấy Mặt Trăng. Do vậy người xưa nói “nóng
lạnh tự biết” và “ai ăn nấy no, ai
tu nấy chứng”. Cho nên muốn thấu triệt đạo phật cần phải đi bằng con đường
Đạo Học chứ không phải Triết Học. Đi con đường Đạo Học là xoay vào trong mà tiến
thẳng đến tận chỗ sâu thẳm của tâm, tận cùng ý thức (chỗ trước khi khởi niệm) bằng
công phu miên mật tham thiền. Đi bằng con đường Triết Học là hướng ra ngoài ở
trên ngôn ngữ mà sanh nhiều tri giải, càng xa rời Chân Tánh, càng chôn vùi Bản
Tâm, muôn kiếp ngàn đời vẫn là con kiến bò quanh miệng chén không lúc nào ra khỏi
được. Do vậy cổ đức nói: “Khổ Hải Vô
Biên, Hồi Đầu Thị Ngạn!”
Chư Phật, chư Tổ đều dạy mình phải quay
về với Bản Tâm của chính mình. Mà Bản Tâm ấy tức là Phật, vì Phật nghĩa là Giác
Ngộ. Khi mình giác ngộ được Bản Tâm của mình thì mình tức là người giác ngộ,
hay Phật. Do vậy đức Thế Tôn dạy mình Quy Y Phật Bảo. Quy Y Phật Bảo là trở về
nương tựa với tâm giác ngộ nơi chính mình. Chỉ có Tâm Giác Ngộ ấy mới là cái
quý giá nhất trên cõi đời vì thoát được sự giam cầm của vọng thức, của vô minh,
phiền não, sanh tử, và vì được tự do tự tại một cách tuyệt đối. Đó mới thật là
Chơn Quy Y Phật Bảo. Do vậy Kinh Pháp Hoa ví đó là Viên Minh Châu Vô Giá, Tổ Mã
Tổ gọi đó là Kho Báu.
Không chỉ Quy Y Phật Bảo mà còn cả Quy Y
Pháp Bảo và Tăng Bảo nữa. Bởi Phật là Tâm, Tâm là Phật, thì Pháp và Tăng cũng
là Tâm, Tâm cũng là Pháp, là Tăng. Tuy ba mà một tuy một mà ba. Pháp Bảo hay Diệu
Pháp (trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh) cũng tức là Dụng Chiếu Soi của Chân Tâm Bản
Tánh mình. Tăng Bảo là Một Tâm Thể Thanh Tịnh. Chân Tâm chiếu soi cùng khắp
pháp giới mà vẫn thường tịch nhiên vắng lặng, nên nó vừa chiếu soi (Pháp) vừa tịch
tịnh (Tăng). Do sống với và được chiếu soi bởi Chân Tâm nên ta không mắt phải
những Kiến Tư Hoặc ngược lại còn hóa giải tất cả những kiến tư hoặc phiền não ấy
biến thành Tri Kiến Phật; và do sống với và được tịch tịnh hoàn toàn bởi Chân
Tâm nên ta không bị những sắc tướng bên ngoài chi phối hay bị chúng làm ô nhiễm,
giới thể được trong sạch tuyệt đối. Đó mới thật là Chơn Quy Y Pháp và Tăng Bảo.
Vì vậy Tổ Huệ Năng đã truyền “Vô Tướng Tam Quy Y Giới” như sau:
“Thiện tri thức,
QUY Y GIÁC, lưỡng túc tôn, QUY Y CHÁNH, ly dục tôn, QUY Y TỊNH, chúng trung
tôn. Từ nay trở đi, xưng GIÁC làm Thầy, trọn chẳng quy y tà ma ngoại đạo, dùng
Tự Tánh Tam Bảo thường tự chứng minh. Khuyên các thiện tri thức, nên Quy Y Tự
Tánh Tam Bảo: Phật tức là GIÁC, Pháp tức là CHÁNH, Tăng tức là TỊNH. Tự tâm quy
y GIÁC thì tà mê chẳng sanh, thiểu dục tri túc, hay lìa tài sắc, gọi là Lưỡng
Túc Tôn. Tự tâm quy y CHÁNH, niệm niệm chẳng tà kiến, vì chẳng tà kiến nên chẳng
có nhơn ngã, cống cao, tham ái, chấp trước, gọi là Ly Dục Tôn. Tự tâm quy y TỊNH,
tự tánh đối với tất cả cảnh giới trần lao ái dục đều chẳng nhiễm trước, gọi là
Chúng Trung Tôn. Nếu tu hạnh này là Tự Quy Y. Phàm phu chẳng hiểu, từ sáng đến
tối thọ Tam Quy Y, nếu nói quy y Phật, Phật ở chỗ nào? Nếu chẳng thấy Phật thì
dựa vào đâu mà Quy Y? Nói lại thành vọng. Thiện
tri thức, mọi người hãy xem xét kỹ, chớ lầm dụng tâm, trong Kinh rõ ràng nói là
Quy Y Tự Tánh Phật, chẳng có nói Quy Y Tha Phật. Tự tánh Phật, chẳng quy y thì đâu còn chỗ nào để quy y nữa! Nay đã
tự ngộ, mỗi mỗi đều phải quy y Tự Tánh Tam Bảo, bên trong tự sửa tâm tánh, bên
ngoài kính mến mọi người, tức là Tự Quy Y vậy.”
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai
cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình. Do vậy chỉ cần quay trở về
nương tựa Bản Tâm Tự Tánh của mình thì được ba viên ngọc quý ấy, chẳng những thế
mà vô lượng vô biên ngọc quý cũng được vì Tự Tánh là Kho Báu đầy đủ không thiếu
sót. Nên Tổ Huệ Năng nói: “Nào ngờ tự
tánh bổn tự cụ túc” và Tổ Mã Tổ nói: “Chính
cái ông hỏi ta đó là kho báu của ông, đầy đủ không thiếu sót”. Tự Tánh đã đầy
đủ Phật, Pháp, và Tăng Bảo rồi mà ta không chịu quay về nương tựa, thì ta còn
quy về nương tựa với cái gì và ở đâu nữa?
Những tòa nhà, những chung cư, cho đến
những thành phố đều do tâm và ý tưởng của biết bao người tạo nên như kỹ sư, kiến
trúc sư, và quần chúng. Do vậy Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm như hoạ sĩ khéo, vẽ thế giới
muôn màu, cảnh ngũ ấm thế gian, không pháp nào không tạo.” Tất
cả những vật được nhân tạo trên thế giới nầy đều là sảng phẩm của ý tưởng và
tâm thức của con người. Cả cuộc đời mình xoay vần và sống trong cái ý tưởng và
tâm thức lầm mê không những của chính mình mà của cả những người khác nữa. Thế
thì mình hướng ra ngoài mà quy y vọng tâm của người và vọng tâm nơi mình, chứ
đâu phải mình quy y cái Chân Tâm Bản Tánh Phật thật sự của chính mình đâu?! Những
hình tượng Phật là do họa sĩ và nghệ nhân sáng tạo ra từ tâm thức của họ. Nếu
không khéo và thiếu sự hiểu biết chân chính, mình có thể bị lầm, lạy và quy y
hình tượng Phật bên ngoài (Tha Phật), cũng tức là mình quy y cái tâm thức hư vọng
của người họa sĩ mà không hay biết. Nói thế không phải là bát bỏ việc lạy hình
tượng Phật bởi đó cũng là một phương tiện tốt để tiếp người sơ học vào cửa Phật.
Nhưng nếu không nhận thức đúng đắng và rõ ràng thì mình sẽ bị lệ thuộc vào những
việc đó, lâu dần sẽ khiến sanh nhiều tà kiến trái nhân quả và những chấp trước
sai lầm. Ví dụ như việc đi chùa cúng dường Tam Bảo để gieo trồng ruộng phước, lạy
hình tượng đức Thích Ca Mâu Ni Phật là để tỏ lòng kính trọng và niệm danh hiệu
ngài để lòng mình tạm lắng diệu mà nhớ ân đức cao vời của ngài đối với nhân
sinh, và nghe lời giảng dạy của chư Tăng về Phật Pháp để về nhà mình áp dụng
vào đời sống hằng ngày làm cho đời sống của mình trở nên bình lạc và tốt đẹp
hơn; tất cả những việc nầy đều hoàn toàn đúng pháp và sẽ được những quả báo tốt
đẹp trong vòng tương đối Nhân Quả. Song, nếu không hiểu và làm đúng thế, thì mình
cứ vào chùa lạy hình tượng Phật rồi cầu xin cho mình nhiều thứ như tiền tài,
danh lợi, gia đình, sự nghiệp và v.v… thì càng tăng trưởng lòng tham sân si như
vậy thì mình đã vô hình chung biến đức Phật thành vị Thần Linh và biến Phật
Giáo thành Thần Giáo. Do vậy không mang lại lợi ích giác ngộ giải thoát cho
chính mình và người. Ngược lại còn dẫn đến sự suy đồi của Phật giáo, vì dụng
tâm sai lầm và truyền bá tà kiến. Vì thế đức Lục Tổ dạy: “Thiện tri thức, mọi người hãy xem xét kỹ, chớ lầm dụng tâm, trong Kinh
rõ ràng nói là Quy Y Tự Tánh Phật, chẳng có nói Quy Y Tha Phật.” Vậy mình phải
thử hỏi lại chính mình, ta quy y Phật hay ta quy y Thần?
Trong giáo pháp của đức Phật có hai loại
kinh giáo, một là Bất Liễu Nghĩa và
hai là Liễu Nghĩa. Kinh Bất Liễu Nghĩa
là những kinh dạy về nhưng phép tương đối, thuộc về Nhân Quả, rất rõ ràng và dễ
hiểu vì có thể diễn tả và nhận thức bằng ngôn ngữ thế gian. Do vậy những kinh Bất
Liễu Nghĩa còn được gọi là Khế Cơ.
Do nhờ thực hành những kinh giáo ấy mà hành giả có sức chánh niệm tỉnh giác, thấy
rõ được nguồn góc khổ vui, thiện ác mà chuyển hóa thân tâm từ ác sang thiện, từ
khổ sang vui, mang lại sự bình an và lợi lạc cho cuộc sống hiện tại và tương
lai. Đây gọi là người có Phàm Tuệ.
Kinh Liễu Nghĩa thì mang tính khế hợp
chân lý nên còn gọi là Khế Lý. Những
hệ kinh Liễu Nghĩa nầy chỉ bày cho người tu con đường trở về và sống thật với Tự
Tánh Giác xưa nay sẵn có nơi mọi chúng sanh. Khi hành giả đã thấu triệt Bản Tâm
Tự Tánh nơi mình thì tất cả những sinh hoạt đời sống được soi sáng bằng Trí Bát
Nhã chứ không còn bằng vọng thức nữa nên không bị lầm lỗi, cũng không tạo nghiệp.
Đây gọi là người có Thánh Tuệ.
Do vì Tự Tánh Giác là Bản Thể Tuyệt Đối
nên nó vượt ngoài trí thức hư vọng của con người, nên không thể diễn tả và lãnh
hội được trên lời nói chữ nghĩa. Thử nghĩ xem, nguồn Tâm là chỗ trước khi khởi
niệm, thì làm sao mà còn khởi niệm để nói và hiểu về Bản Tâm ấy được? Nhưng
không nói ra thì chúng sanh không biết đường mà vào. Thế cho nên đức Thế Tôn phải
dùng nhiều lời lẽ ẩn dụ và ví dụ để Khai Thị Ngộ Nhập Tri Kiến Phật nơi chúng
sanh. Do vậy các hệ Kinh Liễu Nghĩa khó hiểu hơn là vì chúng chưa đầy nghĩa ẩn
dụ về Bản Tâm. Thí dụ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đã dùng câu chuyện kẻ ăn mày và gả
cùng tử để chỉ cho chúng sanh có sẵn Tánh Phật nơi mình nhưng đã đánh mất từ bấy
lâu. Chính tựa đề Kinh cũng chứa đầy nhiều nghĩa ẩn dụ về Tri Kiến Phật nơi
mình. Không riêng gì Kinh Pháp Hoa mà các Kinh Liễu Nghĩa khác như Kinh A Di
Đà, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Kim Cang v.v… cũng đều như vậy.
Chìa khóa để mở kho tàng kinh giáo Liễu Nghĩa là ở công phu Tham Thiền. Một khi
Tâm được sáng tỏ thì tất cả những Kinh ấy đều được thông suốt một cách rõ ràng.
Còn bằng không chỉ ở trên ngôn từ mà hiểu và giảng thuyết thì không đúng vào
đâu tất cả. Dẫu đúng thì cũng chẳng có lợi ích gì, vì vẫn còn là việc bên bờ
sinh tử, chỉ càng tỏ ra sự lanh lợi và mạnh mẽ của vọng thức mà thôi, do vậy
chư tổ nói đó là “đồ ói mửa của cổ nhân”.
Nay hãy dùng một vài thí dụ của người xưa mà suy xét lấy.
Một hôm Tổ Quy Sơn hỏi ngài Hương
Nghiêm: “Ta nghe ngươi ở chỗ Tiên sư Bá
Trượng hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm, đó là ngươi thông minh lanh lợi, ý
hiểu thức tưởng là cội gốc sanh tử. Giờ đây thử nói một câu khi cha mẹ chưa
sanh xem?”
Ngài Hương Nghiêm tìm khắp đại tạng cũng
không thể trả lời một câu hỏi của Tổ Quy Sơn phải than rằng “bánh vẽ chẳng no bụng đói” đến cầu Tổ
Quy Sơn chỉ dạy.
Tổ Quy Sơn bảo: “Nếu ta nói cho ngươi, về sau ngươi sẽ chửi ta; ta nói là việc của ta
đâu can hệ gì đến ngươi?
Tổ Hương Nghiêm bèn đem những sách vở đã
thu thập được đồng thời đốt hết và nói: “Đời
này chẳng học Phật pháp nữa, chỉ làm Tăng thường làm việc cơm cháo, khỏi nhọc
tâm thần.”
Tổ Hương Nghiêm từ giả Tổ Quy Sơn đến
Nam Dương mang câu hỏi của Tổ Quy Sơn trong lòng. Một ngày nhân cuốc nhầm miếng
gạch văng vào cây tre phát ra tiếng mà Triệt Ngộ Bản Tâm, liền hướng về tổ Quy
Sơn mà bái tạ.
Tổ Đức Sơn làu thông Kinh Kim Cang, nghe
Thiền Tông thịnh hành ở phương Nam, nên bèn đem Thanh Long Sớ Sao của ngài định
đến Tổ Long Đàm Sùng Tín bài trừ Thiền Tông. Nhưng đi gần đến Long Đàm, ngài gặp
một bà lão bán nước bên đường bà lão hỏi “Kinh Kim Cang nói quá khứ tâm bất khả đắc,
hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc, xin hỏi Thượng tọa điểm tâm
nào?”
Tổ Đức Sơn làu thông Kinh Kim Cang mà
cũng không trả lời được một câu hỏi của bà lão về Kinh Kim Cang. Sau đến Tổ
Long Đàm ngộ đạo mới đốt bộ Thanh Long Sớ Sao của ngài trước đại chúng và nói: “Tột cùng các biện luận siêu huyền như một
sợi lông ném trong hư không; hết sạch các trọng yếu ở đời in một nhỏ nước gieo
trong hồ lớn.”
Như vậy thử hỏi xem vì sao cả hai Tổ
Hương Nghiêm và Đức Sơn đốt Kinh Sách? Tại sao các ngài làu thông kinh giáo mà
trả lời những câu hỏi ấy không được? Và như tại sao ngài Huệ Hải đến cầu Phật
Pháp với Tổ Mã Tổ thì lại bị Mã Tổ nói “Kho
báu nhà mình không chịu nhận, mà lo đến người cầu cái gì?”
Tổ Huệ Năng cũng dạy mình Quy Y Tự Tánh
Tam Bảo.
Tổ Đức Sơn cũng dạy “Tông
ta không ngữ cú, không một pháp cho người.”
Ngài Tuệ Trung Thượng sĩ cũng dạy: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”
(nhìn lại chính mình là bổn phận, chứ
không theo bên ngoài mà được).
Vua Trần Nhân Tông cũng dạy mình quay về
Tâm Thanh Tịnh nơi mình: “Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi
đến Tây phương. Di Đà là tính sáng soi, há phải nhọc tìm về Cực lạc.”
Tất cả các ngài đều tỏ ngộ Bản Tâm nơi
các ngài. Các ngài cũng cạng lời hết ý, từ bi đánh đập la hét dạy mình quay về
Tự Tâm. Đó mới thật là Chơn Quy Y Phật, đó mới thật là Chơn Quy Y Pháp, đó mới
thật là chơn Quy Y Tăng. Phật Pháp Tăng Tam Bảo đều không ngoài Bản Tâm, vậy
không quay về Bản Tâm mình mà nhận Tam Bảo còn tìm cầu Phật Pháp Tăng nào ở bên
ngoài nữa?
Một khi mình đã tin Tâm mình, biết được
con đường quy y Tâm mình, và đang nỗ lực tiến bước trên con đường trở về Tâm
mình, cũng như biết rõ được thế nào là Quy Y Tự Tánh Tam Bảo rồi thì tự nhiên
mình sẽ quý kính thế gian Tam Bảo. Chứ không phải bảo rằng quay về Tự Tánh Tam
Bảo thì bỏ Thế Gian Tam Bảo, bởi Tam Bảo là Bất Nhị dù đó là Thế Gian hay Tự
Tánh Tam Bảo. Vả lại không có thế gian Tam Bảo thì làm sao mình biết có cái Tự
Tánh Tam Bảo mà quay về? Do vậy Lục Tổ dạy: “Nay đã tự ngộ, mỗi mỗi đều phải quy y Tự Tánh Tam Bảo, bên trong tự sửa
tâm tánh, bên ngoài kính mến mọi người, tức là Tự Quy Y vậy.”
Chứ đâu phải như một số người gần đây bảo
rằng họ chỉ quy y Nhị Bảo tức là Phật và Pháp Bảo mà không quy y Tăng Bảo. Thật
là lầm lạc và đáng thương sót cho những người tà kiến ngã mạn ấy vì họ chẳng biết
cái ý nghĩa sâu mầu và lợi ích đích thật của việc Quy Y Tam Bảo, đến nỏi chôn
vùi chính họ vào trong những lưới tà kiến cuồng loạn của vọng thức, để rồi chẳng
những đánh mất ba viên ngọc quý nơi họ mà còn từ bỏ luôn cả ruộng phước của
chính họ và của tất cả chúng sanh.
Nếu không có đức Thế Tôn giác ngộ nơi
cây Bồ Đề diễn thuyết Chánh Pháp, và không có có chư Tổ Thánh Phàm Tăng hoằng
truyền Chánh Pháp thì làm sao mình biết mà quy y Tự Tánh Tam Bảo? Do đó mới thấy
được công ơn lớn lao của các ngài đối với nhân sinh, cũng như tầm quan trọng của
thế gian Tam Bảo. Vả lại, Kinh, Luật, và Luận Tạng là do Tăng chúng hoằng truyền
từ thời đức Thế Tôn còn tại thế trãi qua hơn hai mươi lăm thế kỷ vẫn còn tồn tại
đến ngày nay. Nếu như Tăng chúng không còn thì ai duy trì Kinh, Luật, Luận để
truyền đến những đời sau nữa? Bởi phải có thế gian Tăng Bảo mới có thể truyền
tam quy ngũ giới cho hàng cư sĩ tại gia, cũng như thập giới và đại giới cho
hàng xuất gia, để mạng mạch của Phật pháp được phát huy và duy trì, làm lợi lạc
và là chỗ nương tựa cho vô số chúng sanh khổ đau chìm đắm. Dù cư sĩ tại gia có
giỏi và ngộ được Bản Tâm mình một cách triệt để đến đâu đi nữa, cũng không thể
truyền tam quy ngũ giới cho người tại gia và đại giới cho hàng xuất gia. Do vậy
Tổ Huệ Năng đã giác ngộ khi còn là thân cư sĩ, nhưng vì sự tiếp nói mạng mạch
và truyền thừa của Phật và Tổ mà phải thọ đại giới hiện tướng Tỳ Kheo Tăng. Như
vậy thử nghĩ xem, tầm quan trọng của việc duy trì Tăng Bảo lớn lao đến dường
nào! Bởi một khi Tăng Bảo đã không còn thì Phật và Pháp Bảo cũng chẳng còn dù
chỉ là trên ngôn từ chữ nghĩa. Trước khi đức Thế Tôn nhập Đại Niết Bàn có dạy
trong Kinh Di Giáo rằng: “Hãy lấy Giới
Luật làm Thầy”. Luật Tạng đã mất thì Phật Pháp làm sao tồn tại? Hơn thế nữa,
thế gian Tăng Bảo là đoàn thể hòa hợp thanh tịnh tăng chúng, mình quy y thế
gian Tăng Bảo là mình thân cận, nương tựa một đoàn thể hòa hợp tăng để phụng sự
nghe pháp và giúp các ngài hoằng pháp lợi sinh. Tất cả các vị Tăng ấy ai cũng
là Thầy dạy đạo của mình, ai mình cũng có thể thân cận học hỏi chứ đâu phải giới
hạng ở một cá nhân nào. Tăng Bảo không ở một vị xuất gia mà là đoàn thể hòa hợp
thanh tịnh chúng. Chính mình vì không nhận thức rõ ràng về việc quy y Tăng Bảo
nên mới có thái độ và hành vi sai lầm đối với Tăng chúng. Vả lại, chính tâm
mình còn vọng động không thanh tịnh nên mới thấy người và cảnh vật xung quanh
không thanh tịnh. Vậy thì chính mình mới là người cần phải kiểm điểm tâm và
hành vi của chính mình mới đúng, chứ đâu phải hướng ra ngoài chê bai tăng
chúng. Do vậy ngài Lục Tổ nói “Nếu là người
chơn tu, chẳng thấy lỗi thế gian, nếu thấy lỗi của người, trái lại thành tự quấy.
Người quấy ta chẳng quấy, thấy quấy thành tự lỗi, hễ bỏ tâm chấp quấy, phiền
não tự tan rã.” Thế thì mình lại dựa vào đâu mà muốn bỏ đi viên ngọc quý
Tăng Bảo?
Khi mình đã tin Tự Tâm mình là Phật hay
viên ngọc quý, biết được phương pháp để quay về, và quyết chí quay về nương tựa
và nhận lấy Bản Tâm của chính mình, thì mình chẳng cần phải tìm cầu học thêm mớ
chữ nghĩa hay kiến thức nào khác từ bên ngoài, chẳng còn bị mê hoặc bởi những
tà kiến vì luôn được soi sáng bởi tâm tĩnh thức bên trong, và một mình độc bộ
tiến về phía trước tới chỗ tận cùng của tâm thức mà chẳng còn sợ đi lầm đường nữa.
Chỉ một ý chí mãnh liệt hướng vào tâm mà đi thẳng trọn vẹn tới Bờ Bên Kia Giác
Ngộ (Bát Nhã Ba La Mật Đa). Do vậy Tổ Đạt Ma nói “Trực Chỉ Nhân Tâm, Minh Tâm Kiến Tánh, Kiến Tánh Thành Phật”. Ngài
Duy Ma Cật cũng nói “Trực Tâm là Đạo
Tràng, vì lìa các quanh co”.
Muốn Quy Y hay trở về nương tựa với Tự Tánh Giác,
Chánh, Tịnh (Phật, Pháp, Tăng) nơi mình thì điều cần yếu bây giờ là mình phải
tìm bậc minh sư có thể chỉ điểm cho mình con đường hướng thượng, đồng thời mình
phải thật vì sanh tử mà ra sức dụng công tham thiền, nhắm thẳng chỗ một niệm
chưa sanh mà tiến tới, tìm lại ba viên ngọc quy của mình đã bị vùi chôn trong
lòng đất vọng tâm dầy đặc từ bấy lâu đến nay. Khi tìm được rồi thì lúc đó mới
có thể Quy Y Tự Tánh Tam Bảo và sống thật được với chính mình một cách trọn vẹn
hoàn toàn, như gã ăn mày tìm lại được viên ngọc quý trong túi áo, gã cùng tử
tìm lại được cha mình và thừa hưởng cả một gia tài kho báu không thể kể xiết. Vậy,
nếu là bậc anh tài thì đừng ở trên vọng thức ngôn ngữ mà suy lường nữa, hãy âm
thầm nhìn vào tâm mình mà đi thẳng tới phía trước đi! Há chẳng nghe Tổ Huệ Năng
bảo: “Vô niệm niệm tức chánh. Hữu niệm
niệm thành tà” đó hay sao?!
Nói nhiều lời cũng không thể hết, chỉ đành mượn
lời dạy của Tổ Đức sơn mà kết thúc: “Nơi mình vô sự thì chớ vọng cầu, vọng cầu mà được cũng
chẳng phải được. Các ông chỉ vô sự nơi tâm, vô tâm nơi sự thì hư (rỗng) mà linh
(lanh lẹ), không mà diệu. Nếu có nói gốc ngọn
chừng đầu mảy lông đều là tự dối. Còn có mảy may nghĩ nhớ, là nghiệp nhân tam
đồ. Bất chợt sanh tình (vọng khởi) là muôn kiếp bị khóa kín (địa ngục).”
Một hôm Tổ Đức Sơn sai thị giả gọi Nghĩa Tồn,
Nghĩa Tồn đến, Sư bảo: "Ta bảo kêu
Nghĩa Tồn, ngươi đến làm gì?" Nghĩa Tồn không đáp được.
Tài
Liệu Tham Khảo:
1.
Pháp
Bảo Đàn Kinh – HT Thích Duy Lực
2.
Thiền
Sư Trung Hoa – HT Thích Thanh Từ
3.
Kinh
Phổ Môn Lược Giải – Ân Sư Thích Minh Điền
4.
Kinh
A Di Đà Lược Giải – Ân Sư Thích Minh Điền