Sunday, July 3, 2016

Vô Tâm Luận



Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Sách Thứ Tám Mươi Lăm Số 2831
Luận Vô Tâm - Một Quyển
Thích Bồ Đề Đạt Ma Soạn
Thánh Tri Phỏng Việt Dịch

Lời Nói Đầu

Vô Tâm Luận là một trong những tác phẩm kinh sách thuộc Giáo Môn xưa được tìm thấy ở động Đôn Hoàng đầu thế kỷ 20. Tuy sách có ghi là của Tổ Bồ Đề Đạt Ma chế, nhưng có nhiều học giả lại cho rằng đây là bài của Tổ Pháp Dung ở núi Ngưu Đầu. Tôi cũng đồng ý với các vị học giả rằng bài này có lẽ là của ngài Pháp Dung vì cách dùng văn chữ Hán rất giỏi và có nét phong thái của Nhà Nho hay đã từng học chữ Hán từ nhỏ vậy. Đặc biệt hơn nữa là lời nói văn phong không giống hành trạng của tổ Bồ Đề Đạt Ma, vì cách hành văn và tư tưởng vẫn thuộc Giáo Môn chứ không phải Thiền Tông.

Tôi tìm xem trên mạng chỉ thấy có hai bản đã được Việt dịch. Một là của cố Hòa Thượng Thích Tắc Pháp. Hai là của Trần Quang Đức. So sánh hai bản dịch này thì bản dịch của cố HT Thích Tắc Pháp mới đúng hơn vì ngài là người xuất gia và có nghiên cứu Thiền Tông, nên dịch chính xác hơn. Có những chỗ, những chữ mà sách viết sai, tôi thấy Hòa Thượng sửa lại cho đúng và tôi cũng đồng ý hoàn toàn với Hòa Thượng. Nếu đọc qua loa, hoặc không hiểu Thiền Tông thì ắt sẽ khó nhận ra những chỗ sai lầm không đúng của người đời sau ghi chép lại.

Vậy đã có người dịch rồi sao tôi còn phí thời giờ mà dịch thêm một bản nữa để làm gì? Bởi vì dịch tức là học vậy. Do dịch, do công phu mò từng chữ gốc bản Hán mới có thể hiểu được sâu hơn và rõ ràng hơn. Nếu chỉ đọc sách của người khác đã dịch sẵn mà không tra cho đến tận nguồn gốc thì thật chưa phải là học được trọn vẹn vậy. Nếu người ta dịch sai, e rằng mình cũng chẳng biết những cái sai ấy, tức sẽ sanh ra nhiều hiểu lầm, và cũng là sự thiếu sót trong việc học tập. Do vì đối chiếu nhiều mặt, nhiều bản dịch, cũng như xét lại nơi đường tâm của chính mình mới có thể giúp cho mình có cái nhìn thoáng hơn, rộng hơn, và biết rõ được đâu là đúng sai, hay dỡ. Đúng sai hay dỡ đều đáng cho mình học cả bởi vì nếu dỡ thì mình bỏ cái dỡ để lấy cái hay, còn nếu đúng thì mình lấy cái đúng mà bỏ cái sai ấy. Có như vậy thì mình mới học hỏi được rộng sâu và gặt hái được nhiệu lợi ích trong việc nghiên cứu tu tập vậy.

Hơn nữa tôi tìm không thấy phần Hán-Việt nên dịch ra bản này tôi có cả ba bài, một bằng chữ Hán, hai bằng chữ Hán-Việt, và ba là bằng chữ Việt. Thiết nghĩ cả ba bài đều không thể thiếu cho người nghiên cứu tu tập.

Như vậy thì dịch thêm một bản Vô Tâm Luận này cốt yếu là để giúp mình tiện lợi nghiên cứu học tập tu hành, chứ chẳng phải muốn khuếch trương cái ngu của mình hoặc mong sánh ngang hàng cùng các bậc trưởng thượng tri thức đi trước. Cũng mong góp một chút sức mọn cho Phật Pháp được sáng tỏ, đặc biệt là Thiền Tông, ngỏ hầu mang lại sự chánh tri chánh kiến cũng như lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh. Vậy, kính mong các bậc tri thức xa gần thương tình lượng thứ cho cái tri thức kém cỏi của tôi mà chỉ dạy thêm cho.

Tuy bài văn này thuộc Giáo Môn nhưng cũng có thể làm chỗ khởi đầu kích thích người sơ phát tâm tìm đến Đại Thừa, đặc biệt là Thiền Tông Tối Thượng Thừa. Nguyện cho kẻ thấy người nghe, ai nấy cũng đồng nhận được con đường hướng thượng, đồng triệt ngộ Vô Tâm (Chân Tâm), chứ chẳng phải vô tâm của “có, không” và vô tâm của tâm ý hí luận.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Thánh Tri Kính Viết
San Antonio, Texas
Mùa Hạ Ngày 3 tháng 7 năm 2016



Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Sách Thứ Tám Mươi Lăm Số 2831
Luận Vô Tâm - Một Quyển
Thích Bồ Đề Đạt Ma Soạn
Thánh Tri Phỏng Việt Dịch

Xét cho cùng thì chân lý rốt ráo không lời, nhưng phải mượn lời để hiển bày cái lý. Đạo lớn không tướng, nhưng phải lấy cái thô bên ngoài mà hiện cái hình. Nay hãy tạm giả lập ra hai người để cùng bàn về cái học thuyết của Vô Tâm vậy.

Đệ tử hỏi Hòa Thượng rằng: Có tâm hay không tâm?

Đáp rằng: Không tâm.

Hỏi rằng: Đã nói không tâm thì ai có thể thấy, nghe, hay, biết? Ai biết không tâm?

Đáp rằng: Vẫn là không tâm đã thấy, nghe, hay, biết. Vẫn là không tâm có thể biết không tâm.

Hỏi rằng: Nếu đã không tâm tức đáng lẽ không có thấy, nghe, hay, biết. Làm sao có thể thấy, nghe, hay, biết được?

Đáp rằng: Tuy ta không tâm nhưng có thể thấy, có thể nghe, có thể hay, có thể biết.

Hỏi rằng: Đã có thể thấy, nghe, hay, biết tức là có tâm, đâu được nói không?

Đáp rằng: Chỉ là thấy, nghe, hay, biết tức là không tâm. Chỗ nào lại lìa thấy, nghe, hay, biết riêng có không tâm? Nay thầy sợ con không hiểu, mỗi mỗi sẽ vì con giải nói khiến con được ngộ chân lý. Giả như thấy, trọn ngày thấy mà do vì không thấy nên thấy cũng không tâm. Nghe, trọn ngày nghe do vì không nghe nên nghe cũng không tâm. Hay, trọn ngày hay do vì không hay nên hay cũng không tâm. Biết, trọn ngày biết do vì không biết nên biết cũng không tâm. Trọn ngày tạo tác, làm cũng như không làm, nên làm cũng như không tâm. Cho nên biết thấy, nghe, hay, biết tất cả đều là không tâm.

Hỏi rằng: Làm sao có thể biết được đó là vô tâm?

Đáp rằng: Con hãy tỉ mỉ suy xét tìm xem, tâm khởi lên tướng mạo gì? Tâm ấy có thể nắm bắt được không? Là tâm hay chẳng phải là tâm? Là ở bên trong? Là ở bên ngoài? Hay ở khoảng giữa? Như thế cả ba chỗ suy xét tìm tâm trọn chẳng thể được. Cho đến đối với tất cả chỗ tìm kiếm cũng không thể được. Nên ngay đó biết là không tâm.

Hỏi rằng: Hòa Thượng đã nói tất cả chỗ đều là không tâm, thì đúng ra không có tội phước. Cớ sao chúng sanh luân hồi lục thú1, sanh tử chẳng dứt?

Đáp rằng: Chúng sanh mê vọng, ở trong Không Tâm mà vọng sanh tâm, tạo bao thứ nghiệp, vọng chấp là có, đủ để khiến cho luân hồi lục thú, sống chết không ngừng. Ví như có người ở trong tối thấy cây trơ trụi cành lá mà cho là ma, thấy sợi dây mà cho là rắn, liền sanh sợ hãi. Chúng sanh vọng chấp cũng lại như thế, ở trong Không Tâm mà vọng chấp có tâm, tạo bao thứ nghiệp, tuy vọng mà thật không ai mà chẳng luân hồi lục thú. Những chúng sanh như thế nếu gặp được bậc Đại Thiện Tri Thức dạy cho tọa thiền, giác ngộ Không Tâm, thì tất cả nghiệp chướng thảy đều sạch hết, sanh tử liền dứt. Thí như trong tối, ánh sáng mặt trời vừa chiếu đến thì bóng tối đều hết. Nếu ngộ Không Tâm thì tất cả tội diệt cũng đều như thế.

Hỏi rằng: Đệ tử ngu muội tâm còn chưa thấu rõ được tất cả chỗ dùng của lục căn ứng ra. Hỏi2 rằng: Từ nói năng cho đến hết thảy hành vi, phiền não, Bồ Đề, sanh tử, Niết Bàn, rốt ráo là không tâm chăng?

Đáp rằng: Rốt ráo là không tâm. Chỉ vì chúng sanh vọng chấp có tâm liền có tất cả phiền não, sanh tử, Bồ Đề, Niết Bàn. Nếu ngộ Không Tâm thì không tất cả phiền não, sanh tử, Niết Bàn. Vậy nên đức Như Lai vì người có tâm mà nói có sanh tử, Bồ Đề đối với phiền não mà có tên, Niết Bàn đối với sinh tử mà có tên.  Những thứ ấy đều là pháp đối trị. Nếu không có tâm có thể được thì phiền não, Bồ Đề cũng không thể được, cho đến sanh tử, Niết Bàn cũng không thể được.

Hỏi rằng: Bồ Đề Niết Bàn đã không thể được, vậy quá khứ chư Phật đều được Bồ Đề, nghĩa này là sao?

Đáp rằng: Chỉ do văn tự của thế đế mà nói là được, đối với chân đế thì thật không thể được. Cho nên Kinh Duy Ma nói: “Bồ Đề không thể do thân đắc, không thể do tâm đắc.” Lại Kinh Kim Cang nói: “Không có một chút pháp có thể đắc. Chư Phật Như Lai chỉ do không thể đắc mà đắc.” Nên biết có tâm thì tất cả có, không tâm thì tất cả không.

Hỏi rằng: Hòa Thượng đã nói đối với tất cả chỗ thẩy đều không tâm, gỗ đá cũng không tâm, há chẳng đồng với gỗ đá ư?

Đáp rằng: Không Tâm của con và thầy, tâm ấy chẳng đồng gỗ đá. Vì sao thế? Thí như trống trời tuy lại không tâm mà tự nhiên phát ra tất cả diệu pháp giáo hóa chúng sanh. Lại như viên châu như ý, tuy lại vô tâm mà tự nhiên có thể làm cho mọi thứ biến hiện ra. Vô tâm của con và thầy cũng lại như thế, tuy lại không tâm mà khéo hay giác rõ thật tướng của các pháp, đầy đủ Bát Nhã chân thật, ba thân tự tại, ứng dụng không ngại. Cho nên Kinh Bảo Tích nói: “Do không tâm ý mà hiện hành.” há đồng gỗ đá ư?! Cái Không Tâm này tức là Chân Tâm, Chân Tâm tức là Không Tâm vậy.

Hỏi rằng: Nay ở trong tâm làm sao tu hành?

Đáp rằng: Chỉ ở trên tất cả việc giác rõ vô tâm tức là tu hành. Ngoài ra chẳng riêng có tu hành nào khác. Nên biết vô tâm tức tất cả, tịch diệt tức không tâm vậy.

Vị đệ tử lúc đó bỗng nhiên đại ngộ, mới biết ngoài tâm không vật, ngoài vật không tâm, mọi cử chi hành động đều được tự tại, dứt sạch mọi lưới nghi, hoàn toàn không ngăn ngại, liền đứng dậy làm lễ, nghi nhớ Không Tâm bèn làm bài tụng rằng:

Tâm thần vốn tịch
Không sắc không hình
Nhìn mà không thấy
Nghe mà không tiếng
Tợ tối không tối
Như sáng không sáng
Bỏ mà không mất
Lấy mà không sanh
Lớn thì rộng khắp pháp giới
Nhỏ thì đầu long chẳng lọt
Phiền não trộn mà không đục
Niết Bàn lắng mà chẳng trong
Chân Như vốn không phân biệt
Hay biện hữu tình vô tình
Thu về thì tất cả chẳng lập
Buông ra thì rộng khắp hàm linh
Diệu Thần chẳng biết chỗ lường
Chánh Giác3 dứt chỗ tu hành
Diệt thì không thấy nó hoại4
Sanh thì không thấy nó thành
Đại đạo lặng lẽ không tướng
Vạn tượng im bặt không tên
Như đây vận dụng tự tại
Đều là tinh túy của Không Tâm

Hòa Thượng lại bảo rằng: Trong các loại Bát Nhã thì Không Tâm Bát Nhã ấy là tối thượng. Cho nên Kinh Duy Ma Cật nói: “Do không tâm ý, không thọ hành mà phá vở hàng phục tất cả ngoại đạo.” Lại Kinh Pháp Cổ nói: “Nếu biết không tâm có thể được, thì pháp tức không thể được, tội phúc cũng không thể được, sanh tử Niết Bàn cũng không thể được, cho đến tất cả trọn không thể được, không thể được cũng không thể được.” Bèn làm bài tụng rằng:

Ngày trước mê thời do có tâm
Giờ đây ngộ rồi rõ không tâm
Tuy rằng không tâm hay chiếu dụng
Chiếu dụng thường lặng tức Như Như

Lại viết:
Không tâm không chiếu cũng không dụng
Không chiếu không dụng tức vô vi
Đó là Như Lai Chân Pháp Giới
Chẳng đồng Bồ Tát với Bích Chi

Nói không tâm đó tức không tâm vọng tưởng5 vậy.

Lại hỏi: Sao gọi là Thái Thượng?

Đáp rằng: Thái là lớn. Thượng là cao. Diệu lý cùng tột nên gọi là Thái Thượng vậy. Lại, Thái là ngôi của thông thái vậy. Trời trong ba cõi tuy có tuổi thọ lâu dài mà phước hết thì cuối cùng cũng luân hồi nơi sáu thú, chưa đủ cho là Thái. Bồ Tát Thập Trụ tuy ra khỏi sanh tử mà Diệu Lý chưa cùng tột cũng chưa cho là Thái. Hàng Thập Trụ tu tâm, quên6 Có vào Không, lại không cái “Có, Không” ấy, trừ bỏ cả hai cái ấy mà không quên7 Trung Đạo cũng chưa cho là Thái. Lại quên Trung Đạo, ba chỗ đều dứt hết, địa vị đều là Diệu Giác. Bồ Tát tuy trừ hết ba chỗ mà không thể không cái Diệu kia, thì cũng chưa cho là Thái. Lại quên cái Diệu kia thì Phật Đạo rất tột, tức không còn giữ lại điều gì, không giữ lại thì nghĩ suy ắt không, nghĩ lo8 đồng quên9, tâm trí hằng dứt, giác chiếu đều hết, lặng lẽ vô vi, ấy mới gọi là Thái vậy. Thái là cái nghĩa cùng cực của Chân Lý. Thượng thì không có cái gì bằng, vì vậy nói là Thái Thượng, tức là tên khác của chư Phật Như Lai vậy.
Luận Vô Tâm Một Quyển 



大正新脩大藏經 第八十五冊 No. 2831
無心論一卷
釋菩提達摩製

夫至理無言。要假言而顯理。大道無相為接麁而見形。今且假立二人共談無心之論矣 

弟子問和尚曰。有心無心 

答曰。無心 

問曰。既云無心。誰能見聞覺知。誰知無心 

答曰。還是無心既見聞覺知。還是無心能知無心 

問曰。既若無心。即合無有見聞覺知。云何得有見聞覺知 

答曰。我雖無心能見能聞能覺能知 

問曰。既能見聞覺知。即是有心。那得稱無 

答曰。只是見聞覺知。即是無心。何處更離見聞覺知別有無心。我今恐汝不解。一一為汝解。令汝得悟真理。假如見終日見由為無見。見亦無心。聞終日聞由為無聞。聞亦無心。覺終日覺由為無覺。覺亦無心。知終日知由為無知。知亦無心終日造作。作亦無作。作亦無心。故云見聞覺知總是無心 

問曰。若為能得知是無心 

答曰。汝但子細推求看。心作何相貌。其心復可得。是心不是心。為復在為復在外為復在中間。如是三處推求覓心了不可得。乃至於一切處求覓亦不可得。當知即是無心 

問曰。和尚既云一切處總是無心。即合無有罪福。何故眾生輪迴六1 生死不斷。

答曰。眾生迷妄。於無心中而妄生心。造種種業。妄執為有。足可致使輪迴六趣生死不斷。譬有人於暗中見杌為鬼見繩為蛇便生恐怖。眾生妄執亦復如是。於無心中妄執有心造種種業。而實無不輪迴六趣。如是眾生若遇大善知識教令2禪覺悟無心。一切業障盡皆銷滅生死即斷。譬如暗中日光一照而暗皆盡。若悟無心。一切罪滅亦復如是 

問曰。弟子愚昧心猶未了審。一切處六根所用者應 

3曰。語種種施為煩惱菩提生死涅槃定無心否 

答曰。定是無心。只為眾生妄執有心即有一切煩惱生死菩提涅槃。若覺無心即無一切煩惱生死涅槃。是故如來為有心者有生死。菩提對煩惱得名。涅槃者對生死得名。此皆對治之法。若無心可得。即煩惱菩提亦不可得。乃至生死涅槃亦不可得 

問曰。菩提涅槃既不可得。過去諸佛皆得菩提。此謂可乎 

答曰。但以世諦文字之言得。於真諦實無可得。故維摩經云。菩提者不可以身得不可以心得。又金剛經云。無有少法可得。諸佛如來但以不可得而得。當知有心即一切有無心一切無 

問曰。和尚既云於一切處盡皆無心。木石亦無心。豈不同於木石乎 

答曰。而我無心心不同木石。何以故。譬如天鼓。雖復無心自然出種種妙法教化眾生。又如如意珠。雖復無心自然能作種種變現。而我無心亦復如是。雖復無心善能覺了諸法實相具真般若三身自在應用無妨。故寶積經云。以無心意而現行。豈同木石乎。夫無心者即真心也。真心者即無心也 

曰。今於心中作若為修行 

答曰。但於一切事上覺了。無心即是修行。更不別有修行。故知無心即一切。寂滅即無心也弟子於是忽然大悟。始知心外無物物外無心。舉止動用皆得自在。斷諸疑網更無罣礙。即起作禮。而銘無心乃為頌曰。
 
心神向寂  
無色無形  
覩之不見
聽之無聲  
似暗非暗  
如明不明
捨之不滅  
取之無生
大即廓周法界  
小即毛竭不停
煩惱混之不濁  
涅槃澄之不清
真如本無分別  
能辯有情無情
收之一切不立  
散之普遍含靈
妙神非知所測  
4於修行
滅則不見其5   
生則不見其成
大道寂號無相  
萬像窈號無名
如斯運用自在  
總是無心之精

和尚又告曰。諸般若中以無心般若而為最上故維摩經云。以無心意無受行。而悉摧伏外道。又法鼓經。若知無心可得。法即不可得。罪福亦不可得。生死涅槃亦不可得。乃至一切盡不可得。不可得亦不可得。乃為頌曰。

昔日迷時為有心  
爾時悟罷了無心
雖復無心能照用  
照用常寂即如如

無心無照亦無用  
無照無用即無為
此是如來真法界 
不同菩薩為辟支

言無心者即無妄6心也。
又問。何名為太上 

答曰。太者大也。上者高也。窮高之妙理故云太上也。又太者通泰之位也。三界之天雖有延康之壽福盡。是故終輪迴六趣。未足為太。十住菩薩雖出離生死。而妙理未極。亦未為太。十住修心7有入無。又無其無有雙遣不8中道。亦未為太。又忘中道三處都盡。位皆妙覺。菩薩雖遣三處。不能無其所妙。亦未為太。又忘其妙則佛道至極。則無所存。無存思則無思慮910。心智永息。覺照盡。寂然無為。此名為太也。太是理極之義。上是無等色。故云太上。即之佛如來之別名也。

無心論一卷




Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Đệ Bát Thập Ngũ Sách Số 2831
Vô Tâm Luận – Nhất Quyển
Thích Bồ Đề Đạt Ma Chế

Phù chí lý vô ngôn, yếu giả ngôn nhi hiển lý, đại đạo vô tướng vị tiếp thô nhi hiện hình. Kim thả giả lập nhị nhân, cộng đàm vô tâm chi luận hĩ.

Đệ tử vấn Hòa Thượng viết: Hữu tâm, vô tâm?

Đáp viết: Vô tâm

Vấn viết: Kí vân vô tâm thùy năng kiến, văn, giác, tri? Thùy tri vô tâm?

Đáp viết: Hoàn thị vô tâm kí kiến, văn, giác, tri. Hoàn thị vô tâm năng tri vô tâm.

Vấn viết: Kí nhược vô tâm tức hợp vô hữu kiến, văn, giác, tri. Vân hà đắc hữu kiến, văn, giác, tri?

Đáp viết: Ngã tuy vô tâm năng kiến, năng văn, năng giác, năng tri.

Vấn viết: Kí năng kiến, văn, giác, tri, tức thị hữu tâm na đắc xưng vô?

Đáp viết: Chỉ thị kiến, văn, giác, tri tức thị vô tâm. Hà xứ cánh ly kiến, văn, giác, tri biệt hữu vô tâm. Ngã kim khủng nhữ bất giải, nhất nhất vị nhữ giải, thuyết linh nhữ đắc ngộ chân lý, giả như kiến chung nhật kiến do vị vô kiến kiến diệc vô tâm. Văn chung nhật văn do vị vô văn, văn diệc vô tâm; giác chung nhật giác do vị vô giác, giác diệc vô tâm; tri chung nhật tri do vị vô tri, tri diệc vô tâm. Chung nhật tạo tác, tác diệc vô tác, tác diệc vô tâm. Cố vân kiến, văn, giác, tri tổng thị vô tâm.

Vấn viết: Nhược vi năng đắc tri thị vô tâm?

Đáp viết: Nhữ đãn tử tế thôi cầu khan, tâm tác hà tướng mạo? Kì tâm phục khả đắc? Thị tâm? Bất thị tâm? Vi phục tại nội? Vi phục tại ngoại? Vi phục tại trung gian? Như thị tam xứ thôi cầu, mịch tâm liễu bất khả đắc. Nãi chí ư nhất thiết xứ cầu mịch diệc bất khả đắc. Đương tri tức thị vô tâm.

Vấn viết: Hòa thượng kí vân nhất thiết xứ tổng thị vô tâm, tức hợp vô hữu tội phúc. Hà cố chúng sanh luân hồi lục thú1 sanh tử bất đoạn?

Đáp viết: Chúng sanh mê vọng, ư vô tâm trung nhi vọng sanh tâm, tạo chủng chủng nghiệp, vọng chấp vi hữu, túc khả trí sử luân hồi lục thú sanh tử bất đoạn. Thí hữu nhân ư ám trung, kiến diện ngột vi quỷ, kiến thẳng vi xà, tiện sanh khủng bố. Chúng sanh vọng chấp diệc phục như thị, ư vô tâm trung vọng chấp hữu tâm, tạo chủng chủng nghiệp, nhi thật vô bất luân hồi lục thú. Như thị chúng sanh nhược ngộ Đại Thiện Tri Thức giáo lệnh tham2 thiền giác ngộ Vô Tâm. Tất cả nghiệp chướng tận giai tiêu diệt, sanh tử tức đoạn. Thí như ám trung nhật quang, nhất chiếu nhi ám giai tận. Nhược ngộ Vô Tâm, nhất thiết tội diệt diệc phục như thị.

Vấn viết: Đệ tử ngu muội tâm do vị liễu thẩm nhất thiết xứ lục căn sở dụng giả ứng. Vấn3 viết: Ngữ chủng chủng thi vi, phiền não, Bồ Đề, sanh tử, Niết Bàn, định vô tâm phủ?

Đáp viết: Định thị vô tâm. Chỉ vi chung sanh vọng chấp hữu tâm tức hữu nhất thiết phiền não, sanh tử, Bồ Đề, Niết Bàn. Nhược giác vô tâm tức vô nhất thiết phiền não, sanh tử, Niết Bàn. Thị cố Như Lai vi hữu tâm giả thuyết hữu sinh tử, Bồ Đề đối phiền não đắc danh, Niết Bàn đối sinh tử đắc danh, thử giai đối trị chi pháp. Nhược vô tâm khả đắc tức phiền não, Bồ Đề diệc bất khả đắc, nãi chí sanh tử, Niết Bàn bất khả đắc.

Vấn viết: Bồ Đề Niết Bàn ký bất khả đắc, quá khứ chư Phật giai đắc Bồ Đề thử vị khả hồ?

Đáp viết: Đãn dĩ thế đế văn tự chi ngôn đắc, ư chân đế thật vô khả đắc. Cố Duy Ma Kinh vân: “Bồ Đề giả bất khả dĩ thân đắc, bất khả dĩ tâm đắc.” Hựu Kim Cang Kinh vân: “Vô hữu thiểu pháp khả đắc. Chư Phật Như Lai đã dĩ bất khả đắc nhi đắc.” Đương tri hữu tâm tức nhất thiết hữu, vô tâm nhất thiết vô.

Vấn viết: Hòa Thượng ký vân ư nhất thiết xứ tận giai vô tâm, mộc thạch diệc vô tâm, khởi bất đồng ư mộc thạch hồ?

Đáp viết: Nhi ngã vô tâm, tâm bất đồng mộc thạch. Hà dĩ cố? Thí như thiên cổ tuy phục vô tâm, tự nhiên xuất chủng chủng diệu pháp giáo hóa chúng sanh. Hựu như như ý châu tuy phục vô tâm tự nhiên năng tác chủng chủng biến hiện. Nhi ngã vô tâm diệc phục như thị, tuy phục vô tâm thiện năng giác liễu chư pháp thật tướng, cụ chân Bát Nhã, tam thân tự tại, ứng dụng vô phương. Cố Bảo Tích Kinh vân: “Dĩ vô tâm ý nhi hiện hành.” khởi đồng mộc thạch hồ?! Phù vô tâm giả tức chân tâm dã, chân tâm giả tức vô tâm dã.

Vấn viết: Kim ư tâm trung tác nhược vi tu hành?

Đáp viết: Đãn ư nhất thiết sự thượng giác liễu vô tâm tức thị tu hành, cánh bất biệt hữu tu hành. Cố tri vô tâm tức nhất thiết, tịch diệt tức vô tâm dã, đệ tử ư thị hốt nhiên đại ngộ, thủy tri tâm ngoại vô vật, vật ngoại vô tâm, cử chỉ động dụng giai đắc tự tại, đoạn chư nghi võng, cánh vô quái ngại, tức khởi tác lễ nhi minh vô tâm nãi vi tụng viết:

Tâm thần hướng tịch
Vô sắc vô hình
Đổ chi bất kiến
Thính chi vô thanh
Tự ám phi ám
Như minh bất minh
Xả chi bất diệt
Thủ chi vô sanh
Đại tức khuếch chu pháp giới
Tiểu tức mao kiệt bất đình
Phiền não hỗn chi bất trọc
Niết Bàn trừng chi bất thanh
Chân Như bổn vô phân biệt
Năng biện hữu tình vô tình
Thu chi nhất thiết bất lập
Tán chi phổ biến hàm linh
Diệu thần phi tri sở trắc
Chánh giác4 tuyệt ư tu hành
Diệt tắc bất kiến kỳ hoại5
Sanh tắc bất kiến kỳ thành
Đại đạo tịch hào vô tướng
Vạn tượng yểu hào vô danh
Như tư vận dụng tự tại
Tổng thị vô tâm chi tinh

Hòa thượng hựu cáo viết: Chư Bát Nhã trung dĩ Vô Tâm Bất Nhã nhi vi tối thượng. Cố Duy Ma Kinh vấn: “Dĩ vô tâm ý vô thụ hành nhi tất tồi phục ngoại đạo.” Hựu Pháp Cổ Kinh: “Nhược tri vô tâm khả đắc, pháp tức bất khả đắc, tội phúc diệc bất khả đắc, sanh tử Niết Bàn diệc bất khả đắc, nãi chí nhất thiết tận bất khả đắc, bất khả đắc diệc bất khả đắc”. Nãi vi tụng viết:

Tích nhật mê thì vi hữu tâm
Nhĩ thời ngộ bãi liễu vô tâm
Tuy phục vô tâm năng chiếu dụng
Chiếu dụng thường tịch tức Như Như

Trùng viết:

Vô tâm vô chiếu diệc vô dụng
Vô chiếu vô dụng tức vô vi
Thử thị Như Lai Chân Pháp Giới
Bất đồng Bồ Tát vi Bích Chi

Ngôn vô tâm giả tức vô vọng tưởng6 tâm dã.

Hựu vấn: Hà danh vi Thái Thượng?

Đáp viết: Thái giả đại dã, Thượng giả cao dã, cùng cao chi diệu lý cố vân thái thượng dã, hựu thái giả thông thái chi vị dã. Tam giới chi thiên tuy hữu diên khang chi thọ phúc tận thị cố chung luân hồi lục thú vị túc vi thái. Thập Trụ Bồ Tát tuy xuất ly sanh tử nhi diệu lý vị cực diệc vị vi thái. Thập Trụ tu tâm vong7 hữu nhập vô, hựu vô kỳ vô hữu, song khiển, bất vong8 trung đạo diệc vị vi Thái. Hựu vong trung đạo, tam xứ đô tận, vị giai Diệu Giác. Bồ Tát tuy vị khiển tam xứ, bất năng vô kỳ sở diệu, diệc vị vi Thái. Hựu vong ký Diệu tắc Phật Đạo chí cực, tắc vô sở tồn, vô tồn tư tắc vô, tư lự9 kiêm vong10, tâm trí vĩnh tức, giác chiếu câu tận, tịch nhiên vô vi, thử danh vi Thái da. Thái thị lý cực chi nghĩa. Thượng thị vô đẳng sắc. Cố vân Thái Thượng tức chi Phật Như Lai chi biệt danh dã.
Vô Tâm Luận Nhất Quyển

Ghi Chú:
1.     Sách ghi là = Lục Tụ, nhưng đáng lý là Lục Thú thì mới có nghĩa. Vì ở văn sau cũng nói là = Lục Thú. Do vậy sách viết sai từ, nên để là Lục Thú.

2.     Sách ghi là 坐禪 = Tọa Thiền. Nhưng đổi lại thành 參禪 = Tham Thiền thì mới hợp với Thiền Tông. Bởi Thiền là Tâm Thiền chứ không phải Thân Tọa. Lục Tổ Huệ Năng cũng nói “Đạo do Tâm Ngộ bất tại Tọa.” (Đạo do Tâm Ngộ chẳng do Ngồi)

3.     Sách ghi là 答曰 = Đáp Rằng, nhưng thấy không có nghĩa vì vị đệ tử đang hỏi. Cho nên sửa lại thành 問曰= Hỏi Rằng cho dễ hiểu.

4.     Sách ghi là 正覓 = Chánh Mịch nhưng không có nghĩa, chữ mịch thấy giống chữ giác () nên ghi là = Chánh Giác cho dễ hiểu.

5.     Sách ghi là = Hoài, nhưng không có nghĩa, phải là = Hoại mới có thể đối với câu sau là [] = Thành. Vì thế sách viết sai từ, nên để là Hoại.

6.     Sách ghi là = Tướng nhưng có lẽ nên ghi là = Tưởng thì mới phù hợp.

7.     Sách ghi là = Vọng, nhưng = Vong (Quên) thì mới đúng nghĩa của bài văn.

8.     Sách ghi là = Vọng, nhưng = Vong (Quên) thì mới đúng nghĩa của bài văn.

9.     Sách ghi là “vô tồn tư tắc vô tư lự, kiêm vong9 tâm trí vĩnh tức” nhưng thấy đọc không được trôi trãi và không đúng với ý vị của thiền tông. Nếu bốn chữ sau là “tâm trí vĩnh tức” thì bốn chữ trước phải là “tư lự kiêm vong” mới phù hợp văn phong và có ý nghĩa. Như vậy còn lại năm chữ “vô tồn tư tắc vô” là một câu. Do vậy sửa lại là “vô tồn tư tắc vô, tư lự kiêm vong, tâm trí vĩnh tức”.

10. Sách ghi là = Vọng, nhưng = Vong (Quên) thì mới đúng nghĩa của bài văn.

Tài Liệu Tham Khảo:

1.     Hán Việt Từ Điển Trích Dẫn Online. http://hanviet.org/

2.     Vô Tâm Luận bằng tiếng Hán. Chinese Buddhist Electronic Text Association (CBETA). http://tripitaka.cbeta.org/T85n2831_001

3.     Vô Tâm Luận. Cố HT Thích Đắc Pháp Việt dịch. http://www.buddhamountain.ca/VT2831.php

4.     Vô Tâm Luận. Trần Quang Đức Việt dịch.

No comments:

Post a Comment