THE DHARMA LECTURE OF BODHIDHARMA FOR
EMPEROR VŨ OF THE LƯƠNG DYNASTY
Phạm Công Thiện
Translated from French to Vietnamese
Thích Thiện Trí
Translated from Vietnamese to English
PREFACE
I was seventeen
years of age when I first read this text in Vietnamese. There is something
special and indescribable about this text that has shaken me to my bone marrows
even though at that time I did not know much about Buddhism. It was indeed the
very first time I ever being exposed to Thiền (Zen). Although the tone and
language of Thiền in this text were completely foreign and initially bewildered
me, I felt strongly connected, close, intrigue, upbeat, ease, secure, and warm
about it. Not to mention, I found peaceful moments and peace of mind when
reading it. The more I read, the more I love it. Maybe because of its
simplicity, directness, truthfulness, and profoundness. And maybe because I
have practiced Thiền in my previous life. This text gave me such a great
impression and imprinted strongly and deeply in my mind its profound
perspective. It has been and always will have a special place in my heart.
Indeed, it was one of the motivating forces leading me to learn more about and
practice Thiền. I have printed, kept this text, carried with me, and continued
reading it from time to time ever since. And yet every time I re-read it, I
still find it’s insightful and exceptional. I have taken an initial step to
translate this valuable text into English to sow a Buddha seed in everyone's
mind, create a good causal condition, form a connection and friendship with
everyone, especially, English speaking people in the present and future. I hope
everyone will find this text useful, worthwhile, and beneficial the same way I
did.
Because I'm still
a human lost in the delusional cycle of rebirth, deceived by my karmic
consciousness, and not able to see and understand all the true meaning of the
text, therefore, there are certainly many shortcomings in this translation.
Thus, I hope that all the good knowledgeable friends will point out and
enlighten me on my shortcomings to make this translation clearer and more
complete to benefit everyone. I am sincerely grateful for all of you for this.
I also want to thank Dr. Phạm Công Thiện who was an influential Vietnamese
professor, writer, poet, philosopher and was an author of many great books at
his time for his admirable work translating skillfully this great text from
French into Vietnamese. Without his extraordinary work, I would not be able to
find, learn and practice Thiền.
May I and all
beings realize our own Buddha-nature, being enlightened and liberated from all
our constraints and sufferings. And together we will attain enlightenment,
becoming a Buddha for ourselves and all beings, and is a Buddha of ourselves
and all beings.
Namo Shakyamuni Buddha.
Liên Hoa Buddhist
Temple, Summer 2019
Thích Thiện Trí
THE DHARMA LECTURE OF BODHIDHARMA FOR
EMPEROR VŨ OF THE LƯƠNG DYNASTY
Phạm Công Thiện
Translated from French to Vietnamese
Thích Thiện Trí
Translated from Vietnamese to English
LỜI NÓI ĐẦU
Tôi được mười bảy
tuổi khi lần đầu tiên đọc văn bản này bằng tiếng Việt. Có một điều gì đó đặc biệt
và không thể diễn tả được về văn bản này đã làm tôi rung động đến tận xương tủy
mặc dù lúc đó tôi không biết nhiều về Phật giáo. Đó thực sự là lần đầu tiên tôi
được tiếp xúc với Thiền (Zen). Mặc dù giọng điệu và ngôn ngữ của Thiền trong
văn bản này hoàn toàn xa lạ và ban đầu làm tôi hoang mang, tôi cảm thấy được kết
nối mạnh mẽ, gần gũi, hấp dẫn, lạc quan, dễ dàng, an toàn và ấm áp về nó. Chưa
kể, tôi tìm thấy những khoảnh khắc yên bình và an tâm khi đọc nó. Càng đọc tôi
càng thích nó. Có lẽ vì sự đơn giản, trực tiếp, trung thực và sâu sắc của nó.
Và có lẽ bởi vì tôi đã thực hành Thiền ở kiếp trước. Văn bản này đã cho tôi một
ấn tượng tuyệt vời và in sâu trong tâm trí tôi cái quan điểm sâu sắc của nó. Nó
đã và sẽ luôn có một vị trí đặc biệt trong trái tim tôi. Thật vậy, đó là một
trong những động lực thúc đẩy tôi tìm hiểu thêm và thực hành Thiền. Tôi đã in,
giữ văn bản này, mang theo bên mình và thỉnh thoảng đọc nó. Vậy mà mỗi lần đọc
lại, tôi vẫn thấy nó sâu sắc và đặc biệt. Tôi đã thực hiện một bước ban đầu để
dịch văn bản có giá trị này sang tiếng Anh để gieo hạt giống Phật trong tâm trí
của mọi người, tạo điều kiện nhân quả tốt, hình thành mối liên hệ và tình bạn với
mọi người, đặc biệt là những người nói tiếng Anh trong hiện tại và tương lai.
Tôi hy vọng mọi người sẽ thấy văn bản này hữu ích, đáng giá và có lợi giống như
tôi đã làm.
Bởi vì tôi vẫn còn
là một người lạc lối trong vòng luân hồi ảo tưởng, bị lừa dối bởi nghiệp thức của
chính mình, không thể nhìn và hiểu được tất cả ý nghĩa thực sự của văn bản; do
đó, có lẽ và chắc chắn có nhiều thiếu sót trong bản dịch này. Vì vậy, tôi hy vọng
rằng tất cả những người bạn thiện tri thức sẽ chỉ ra và khai sáng cho tôi về những
thiếu sót của tôi để làm cho bản dịch này rõ ràng và đầy đủ hơn để mang lại lợi
ích cho mọi người. Tôi chân thành biết ơn tất cả các bạn vì điều này. Tôi cũng
muốn cảm ơn Tiến sĩ Phạm Công Thiện, một giáo sư, nhà văn, nhà thơ, nhà triết học
có ảnh hưởng của Việt Nam và là tác giả của nhiều cuốn sách tuyệt vời vào thời
của ông cho công việc đáng ngưỡng mộ của ông đã dịch một cách khéo léo văn bản
tuyệt vời này từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Nếu không có công việc phi thường
của anh ấy, tôi sẽ không thể tìm, học và thực hành Thiền.
Nguyện cho tôi và
tất cả chúng sinh nhận ra Phật tánh của chính mình, được giác ngộ và giải thoát
khỏi mọi ràng buộc và đau khổ của chính mình. Và cùng nhau chúng ta sẽ đạt được
sự giác ngộ, trở thành một vị Phật cho chính mình và cho tất cả chúng sinh, và là
một vị Phật của chính mình và của tất cả chúng sinh.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Liên Hoa Đạo Tràng, Mùa Hạ 2019
Thích Thiện Trí
THE DHARMA LECTURE OF BODHIDHARMA FOR
EMPEROR VŨ OF THE
LƯƠNG DYNASTY
Phạm Công Thiện Translated from French to Vietnamese
Thích Thiện Trí Translated from Vietnamese to English
The following is a
translation of Bodhidharma’s teachings in the book, “Histoire des Croyances Religieuses et des Opinions Philosophiques en
Chine (Depuis l'origine jusquà nos jusquà nos jours)” [English: History of
religious beliefs and philosophical opinions in China (from the beginning to
the present day)] of Léon Wieger (1922).
This is the first
dharma lecture of Bodhidharma in China. He preached right at the court of Lương
Vũ Đế (Emperor Wu of Liang, 梁 武 帝 - the founding emperor of the Liang Dynasty 464 –
549)
with the presence of the Emperor and the officials of the entire bureaucracy.
They are the elite intellectual individuals in the country. Although Emperor
Liang Wu is a devout emperor and the officials in the dynasty are intellectuals
in the country, they do not comprehend and accept the main ideas in the dharma
lecture. This is partly because the emperor and his officials were still
holding on to their beliefs. Also, in part, because the dharma lecture is
overly strong and tough, and almost being bluntly outright. However, the
argument was very sharp, the words were succinctly clear and concise. Even
though the dharma lecture is very short, but it truly has full meaning,
including all the essence of Buddha's teaching and the core of Thiền (Zen). It can be said that the book, “Đạt Ma Huyết Mạch Luận” (The Core Argument of Bodhidharma) is
just developed the thoughts from this dharma lecture. Failure in the first
lecture in China, Bodhidharma left the Lương dynasty. He did not lecture any
more but meditated in front of a wall for nine years.
Part
One: The Nature of Mind
The whole world is
thought in the mind. All the Buddhas, the past and the future have been and
will be created in the mind. Knowledge is transmitted from the mind to the mind
through words so all sutras (Buddhist
canon) are of no use. The mind of each person has the same tune and
corresponds to the eternal reality and the reality of all places. The mind is
the Buddha; there is no Buddha outside the mind. Seeing enlightenment and
nirvana are things outside the mind is a mistake. There is no enlightenment
outside the lively mind. There is no place called the place of those who come
to nirvana (because nirvana is not a
place). Beyond the reality of mind, all are illusory. There is no cause, no
condition, no reason, no results. There is only one reality. That is the
thought of mind and the resting of the mind are nirvana. To find something
outside the mind is to find nothing. The mind is Buddha and Buddha is the mind.
Imagine a Buddha being outside the mind or picturing a Buddha outside the mind
is delirious.
Part
Two: Method
Therefore, we must
look inside and not outside. We must settle in ourselves to see the
Buddha-nature in ourselves. All beings are Buddhas just like us, so we do not
need to save anyone. No Buddha is better than ourselves, so we do not need to
pray and beg anyone. No Buddha understands us better than ourselves, so we do
not need to learn their teachings in their sutras. No law restrains a Buddha. A
Buddha cannot be falling so we shouldn't be afraid of sinning. There are no
good nor evil, only the movements of the mind. But the mind is the Buddha, so
the self-nature (original nature)
cannot be mistaken. Making an offering, preaching, zealously upholding the
precepts, giving alms, praying, and all other things are of no use at all.
There is just only one thing and that is to see the Buddha in ourselves. Seeing
the Buddha within us leads to liberation and nirvana.
Part
Three: Buddha-nature
There are not any
sutras nor any ascetic practice can take us out of the Samsara (the endless cycle of birth, death, and
rebirth, or in Thiền it means the flow of karmic consciousness). Studying
the sutras and practicing asceticism is completely useless and frivolous. In
the absolute calmness and inactiveness, let's self-realize the Buddha-nature
within ourselves (or seeing into one’s
nature or be enlightened), in our mind. That's the real Buddha. Only learn
to see the Buddha-nature because it is the only thing worth studying. All other
images are mists and illusions. Let's look at the Buddha within us. That is the
only honest look. Buddha-nature is in every person, and Buddha-nature is the
same in all people. When we forget everything and only retain that reality, we
are free from samsara and attain nirvana. All the sermonizers (theorizers) are
Mara's assistants and bring people to fantasy. All philosophical systems are
completely false and deceptive. Talking about the purification or cleansing,
good karma, diligence, and progress are deceiving. Each person is his/her own
Buddha and of all. What we have to do until the end is to realize that the sole
reality and truth are within each of us. There is no sin or rather only one
sin. That is ignorance - the sin not realizing the Buddha-nature within
oneself. That is a serious sin because it confines us in the realm of
impermanence. The body is ephemeral. Life is fast passing by like a dream. In
this short time of life, we have to liberate ourselves by discovering our true
self or nature. In this dream of life, we can see our true nature. In this dream
of life, it is the Dharma Body that opens itself in the essence. That is the
entity.
Part
Four: Dharmakaya (Dharma Body)
This Dharmakaya (Dharma Body or the nature/essence of
reality, the nature/essence of our Mind, or Original Mind, or Buddha-nature)
is eternal. Through the cycle of rebirth, rise and fall through countless
lifetime, Dharmakaya is still not born, not die, not increase, not decrease,
not unclean, not clean, not love, not hate, not come, not go, no men, no women,
not old, not young, not cultivating, not continue, no existing, no
non-existing. The Dharmakaya is not one, but neither many, not holy but not
ordinary. The Dharmakaya comes into all without obstacles and nothing can
hinder it. Dharmakaya is cavalier in successive lives, in the cycle of birth
and death.
Sentient beings
and their lives are all returning to Dharmakaya. We see the Dharmakaya right in
us. We must move and act in the light of Mind. The Dharmakaya encompasses all
beings like the Ganges river keeps its water with boundless alluvial particles.
We cannot describe the Dharmakaya, and we cannot explain the Dharmakaya with
words. Each one of us must self contemplate, take in, and comprehend the Dharmakaya
for ourselves. To comprehend the Dharmakaya is to be liberated and enlightened.
To comprehend the Dharmakaya is to liberate from the fluctuation of the world
forces (karmic forces) that
Shakyamuni Buddha called it the Great
Madness. Enlightenment brings us into complete silence. Everyone must
discover themselves, discover Buddha-nature beyond the level of expression of
words and thoughts. The Dharmakaya is invisible, unchanging, and cannot be
destroyed. There is no Buddha other than Dharmakaya because the Dharmakaya is
in the Buddhas. The Dharmakaya is also in everyone.
Part
Five: Peace of Mind
As a reminder that
because of the nature of the Dharmakaya (Dharma Body), we do not need prayers,
sacrificial rituals, and worship; and also we do not need to find anything
outside because we have everything within us. All things outside are illusory
and temporary. Nothing is real outside Dharmakaya. Praying for what being
worship is yourself, worshiping what is yourself is an absurd and useless
thing. The main thing is how to have the stillness and peace of mind; because
stillness and peace of mind help us seeing the Dharmakaya within ourselves,
that is seeing the Buddha. All fantasy and physical icons are false. It is this
mistake that keeps us or brings us into the cycle of rebirth. Do not worship
the images that come from us because those images do not belong to Dharmakaya.
Only worship the ideas emanating from the Buddha-nature. We must abandon all
fantasies about the sacred divinities because they are frivolous illusions.
Don't worship those imaginary objects, and don't be afraid of those things. We
should also throw away all the phantasms about the Buddha. Phantasms are just
frivolous illusions.
Part
Six: Thiền (Zen)
Nothing is more
precious than the invisible ideas of the mind emanating from the Buddha-nature.
The only thing we see is the Dharmakaya (Dharma Body) in us. Buddha is an
Indian language, not the name of a person. It means enlightenment, an
enlightened nature that people can reach. This enlightenment is Thiền (Zen). Those who oppose us cannot
understand the value that we bring into the noun Thiền. Thiền does not mean to
meditate or contemplate. We only achieve Thiền when we see the Buddha-nature within
ourselves. A person who reads countless texts without realizing his on
Buddha-nature or attaining enlightenment is just a mundane mediocre person. My
teaching is difficult for people to understand because words are not capable of
expressing the Way. Only those who
achieve it will understand. I can say to my disciples like this, you must reach
the Buddha-nature in you, which is the Dharmakaya in you. How to describe… and
because it cannot be said, therefore, all the Sutras, Vinaya, and Abhidharma (the three divisions of the Buddhist canon) are
useless. The Sutras, Vinaya, and Abhidharma are just frivolous stories, going
around the problem. Realizing the Buddha-nature is a simple act. Realizing the
Buddha-nature cannot be divided into parts, therefore, we cannot comprehend and
practice part by part. Realizing the Buddha-nature is like swallowing a food,
also simple and immediate like that. People never talk lengthy about and around
swallowing food. We know to swallow or do not know to swallow. Just simply like
that! Those who imagine a reality outside the Buddha-nature and seek to specify
that reality, they fall into a serious mistake. All ideas beyond the ideas about
the intrinsic Buddha-nature are just frivolous phantom. It is these ideas that
produce phantom, the mistakes and constantly keep people in the cycle of
endless rebirth. Man will be liberated when he denies all the ghosts and those
mistakes and at the same time connect to the inner intrinsic Buddha-nature.
This moment of this enlightenment, this moment of this liberation, each person
must go there themselves. Doctrine can only help people prepare. Doctrine
cannot create enlightenment. A dream cannot be learned. Death cannot be
learned. Realizing the Buddha-nature in us also cannot be learned. Dharmakaya
is very simple. We cannot create it, but we can only realize it. Whoever has
received or realized the Dharmakaya does not need heaven, no hell, no self, no other
person, nothing left outside. So the realization of Dharmakaya is the work of
absolute faith, there is absolutely no suspicious darkness mixing in it. When
people dream, they never doubt because they see their true nature. While awake,
we must also firmly believe in it, even if we are bound by the illusions of the
senses and the mistakes of the imagination.
Part
7: Ignorance
For those who have
discovered their silhouette (Buddha-nature) and are no longer bound by any
consequences, then any action of the physical body can not affect the
Dharmakaya. A mediocre person whose job is as a butcher can also be a Buddha.
Those who have realized the Buddha-nature do not create karma anymore, even if
they do any action because he is enlightened. Karma only pursues those who are
not yet enlightened because those people are still in the darkness of
ignorance. It is this ignorance that creates the cycle of rebirth, rebirth in
the hell, the animal and the human realm. All moral debt ends when
enlightenment destroys ignorance. Enlightened beings do not make sin nor
committing a crime anymore.
Part
Eight: Enlightenment
We must gradually
reduce the impressions, gradually reduce ambition, be concentrated and having peace
of mind. That is preparation. The sutras, the ascetic practice, the work of
research and learning has no benefit at all. The realization of Buddha-nature
cannot be learned. Why are there people who have carefully prepared and have
the sincerity but still cannot realizing the Buddha-nature? Because their karma
opposes them. Their blind coma, their stiff mistakes, and their inabilities are
penalties for their sins in the past. They have not paid off the debt. They are
not clean enough to achieve enlightenment. This is mental debt and personal
effort rather than social status.
Part
Nine: What is a Buddha?
I have come to
China to spread the Mind-seal (the
Master’s enlightened mind imprints directly into the enlightened mind of the
disciple, this is the true transmission from a Zen master to his disciple),
the new teaching that nobody knows in here. Buddha is in the mind of every
person. Upholding Precepts, practicing austerity, praying, studying the
meaning, all of these things cannot be used for anything. The only purpose that
everyone must achieve is enlightenment. When one attains enlightenment, one
becomes a Buddha. A Buddha just like all Buddhas even if one cannot read a word
at all. Becoming a Buddha means seeing or realizing the Buddha-nature in us, in
our mind, in the mind of our mind. Buddha-nature is invisible, cannot be
touched, its nature is fragile as nothing. That mind, everyone carries in them.
O Mind, O Mind!
You are so big that cover the whole
universe.
You are so small that the needle cannot
penetrate.
My Mind! You are a Buddha.
It is because of you that I have to go to
China to spread the teachings.
BÀI THUYẾT PHÁP CỦA TỔ BỒ ĐỀ ĐẠT MA CHO LƯƠNG VÕ ĐẾ
Phạm Công Thiện dịch
Sau đây là bản dịch
Bài Thuyết Pháp của Bồ Ðề Ðạt Ma trong Histoire des Croyances Religieuses et
des Opinions Philosophiques en Chine (Depuis l’origine jusquà nos jusquà nos
jours) của Léon Wieger (1922).
Ðây là bài thuyết
pháp đầu tiên của Bồ Ðề Ðạt Ma tại Trung Hoa. Ngài thuyết giảng ngay tại triều
đình của Lương Võ Ðế có sự hiện diện của nhà vua và toàn thể văn võ bá quan là
những thành phần trí thức ưu tú trong nước. Lương Võ Ðế tuy là một ông vua sùng
đạo và các quan văn trong triều tuy là những bậc trí thức trong nước, những
cũng không lãnh hội và chấp nhận nổi những ý chính trong bài thuyết pháp, một
phần vì nhà vua và các quan còn chấp thủ, một phần vì lời thuyết pháp quá ư mạnh
bạo, gần như sổ sàng tuy lý luận rất đanh thép, ngôn từ rỏ ràng và cô đọng. Bài
thuyết pháp tuy rất ngắn gọn nhưng thật là đầy đủ ý nghĩa, bao gồm được tất cả
tinh hoa của giáo pháp Phật và cốt lõi của thiền. Có thể nói cuốn Ðạt Ma Huyết
Mạch Luận chỉ triển khai những tư tưởng trong bài thuyết pháp nàỵ. Thất bại
trong lần thuyết pháp đầu tiên ở Trung Hoa, Bồ Ðề Ðạt Ma bỏ ra đi. Ngài không
thuyết pháp nữa mà ngồi thiền trước một bức tường (bích quán) trong suốt chín
năm trời.
Phần thứ nhất: Bản Chất Của Tâm
Cả thế giới được nghĩ trong tâm. Tất cả chư Phật - quá khứ và vị lai - đã
và sẽ được tạo thành trong tâm. Sự hiểu biết được truyền từ tâm sang tâm qua
ngôn từ nên tất cả những kinh sách chẳng có ích lợi gì. Tâm của mỗi người đồng
điệu và tương ứng với thực tại muôn đời, với thực tại muôn nơi. Tâm là Phật
không có Phật ngoài tâm. Coi giác ngộ và niết bàn là những sự vật ở ngoài tâm
là một điều sai lầm. Không có giác ngộ ở ngoài tâm linh động. Không có chỗ nào
gọi là nơi chốn của những người đến niết bàn. Ngoài thực tại của tâm, tất cả đều
là huyễn tượng. Chẳng có nhân, chẳng có duyên. Chẳng có lý do, chẳng có kết quả.
Chỉ có một thực tại duy nhất. Ðó là: Tư tưởng của tâm và sự an nghỉ của tâm
chính là niết bàn. Ði tìm một sự vật ngoài tâm là đi tìm bắt hư không. Tâm là
Phật và Phật chính là tâm. Tưởng tượng Phật ở ngoài tâm hay hình dung Phật ở
ngoài tâm là mê sảng.
Phần Thứ Hai: Phương thức
Vậy phải nhìn vào trong chứ không nhìn ra ngoài. Phải tự lắng vào chính
mình để thấy Phật tánh trong chính mình. Tất cả chúng sanh đều là Phật như mình
nên mình chẳng cứu ai cả. Không có vị Phật nào hơn mình nên không phải van xin,
cầu nguyện ai cả. Không có Phật nào hiểu mình hơn chính mình nên không phải học
hỏi trong những kinh sách của các vị ấy. Không có luật pháp nào kiềm hãm được
Phật. Một vị Phật không thể sa ngã nên ta không sợ phạm tội. Không có thiện,
không có ác. Chỉ có những động tác của tâm. Mà tâm là Phật nên tự tánh không thể
lầm lỗi được. Cúng kiến, hoằng pháp, nhiệt thành giữ giới, bố thí cầu kinh và tất
cả những thứ khác đều không có ích lợi gì cả. Chỉ cần một điều duy nhất là nhìn
thấy Phật nơi mình. Sự nhìn thấy Phật ở nơi mình đưa đến giải thoát, đến niết
bàn.
Phần Thứ Ba: Phật Tánh
Không có bất cứ một cuốn kinh nào, không có bất cứ sự tu khổ hạnh nào có thể
đưa ta ra khỏi luân hồi. Học kinh và tu khổ hạnh hoàn toàn vô ích, phù phiếm.
Không có quyển sách nào đáng cho ta mở ra đọc. Trong sự an tĩnh, vô vi hoàn
toàn hãy kiến tánh ở nơi mình, nơi chính tâm mình. Ðó mới đúng là Phật. Chỉ học
nhìn thấy Phật tánh thôi vì đó là điều duy nhất đáng học. Tất cả những hình tượng
khác đều là sương mù, ảo ảnh. Hãy nhìn Phật nơi mình. Ðó mới là cái nhìn trung
thực duy nhất. Phật tánh ở trong mỗi người và trong tất cả mọi người, Phật tánh
đều giống nhau. Khi quên tất cả mọi sự và chỉ giữ lại thực tại duy nhất đó là
thoát khỏi vòng luân hồi và tới niết bàn. Tất cả những kẻ thuyết lý đều là trợ
thủ của Mara và đưa con người đến chỗ huyễn tưởng. Mọi hệ thống triết học đều
hoàn toàn sai lầm và có tính cách lường gạt. Nói đến sự tẩy uế, thiện nghiệp,
chuyên tâm và tiến bộ là phỉnh lừa thiên hạ. Mỗi người là Vị Phật của chính
mình và của tất cả. Ðiều ta phải làm cho tới cùng là nhận thức rằng thực tại và
chân lý duy nhất ấy tiềm tàng trong mỗi người chúng ta. Không có tội hay đúng
hơn chỉ có một tội duy nhất: Ðó là tội vô minh, tội không nhận được ra Phật
tánh ở chính nơi mình. Tội này rất nặng vì nó giam ta trong cõi vô thường. Thân
xác là phù du. Cuộc đời trôi nhanh như một giấc mộng. Trong thời gian ngắn ngủi
của cuộc đời ta phải tự giải thoát bằng cách tự khám phá chính hình bóng của
mình. Trong giấc mộng đời, ta có thể thấy được thực chất của mình. Trong giấc mộng
đời, chính Pháp thân tự hé mở trong bản thể. Ðó là thực thể.
Phần Thứ Tư: Pháp Thân
Pháp thân này vĩnh cửu. Trải qua vòng luân hồi, thăng trầm qua vô lượng kiếp,
pháp thân vẫn không sinh, không diệt, không thêm, không bớt, không nhơ nhớp,
không bị tẩy sạch, không yêu, không ghét, không đến, không đi, không đàn ông,
không đàn bà, không già, không trẻ, không tu, không tục, không có, không không.
Pháp thân không một mà cũng không nhiều, không thánh mà cũng không phàm. Pháp
thân đi vào tất cả không bị trở ngại và không gì ngăn cản được. Pháp thân ung
dung trong những kiếp liên tiếp, trong vòng sinh tử.
Chúng sanh và vận mạng của chúng sanh đều qui về pháp thân. Ta thấy pháp
thân này ngay trong ta. Ta phải di động và hành động trong ánh sáng của tâm.
Pháp thân bao trùm tất cả chúng sanh như sông Hằng giữ nước của nó hằng hà sa số
những phân tử phù sa. Ta không thể diễn tả pháp thân được, mà cũng không thể giải
thích pháp thân bằng ngôn từ. Mỗi người hãy tự chiêm ngưỡng, lãnh hội pháp thân
cho chính mình. Lãnh hội được pháp thân là giải thoát, là giác ngộ. Lãnh hội được
pháp thân là ra khỏi sự giao động của thế lực mà đức Thích Ca Mâu Ni gọi là cuồng
loạn vĩ đại. Giác ngộ đưa ta vào trong tỉnh lặng hoàn toàn. Người ta phải khám
phá chính bản thân mình, khám phá Phật tánh ở mức độ ngoài khả năng diễn đạt của
ngôn từ và tư tưởng. Pháp thân vô hình, bất biến và không thể bị hủy diệt. Chẳng
có Phật nào khác ngoài pháp thân vì pháp thân ở trong chư Phật. Pháp thân cũng ở
trong tất cả mọi người.
Phần Thứ Năm: Tĩnh Tâm
Xin nhắc lại rằng vì tánh chất của pháp thân, ta chẳng cần kinh kệ, chẳng cần
cúng tế, thờ phụng mà cũng chẳng tìm cái gì ở ngoài bởi lẽ trong mình ta có tất
cả. Tất cả những sự vật bên ngoài đều là hư ảo giả tạm. Chẳng có gì thật ngoài
pháp thân. Nguyện cầu những gì sùng bái chính là mình, sùng bái những gì chính
là mình là một việc phi lý và vô ích. Ðiều cốt yếu là làm sao có yên lặng và
tĩnh tâm; vì yên lặng, tĩnh tâm giúp ta thấy pháp thân chính nơi ta tức là thấy
Phật. Tất cả những biểu tượng giả tưởng, tất cả những biểu tượng vật chất đều
sai lầm. Chính sự sai lầm ấy giữ ta lại hoặc đưa ta vào trong vòng luân hồi tái
sinh. Không nên sùng bái những hình tượng thoát thai từ nơi mình bởi vì những
hình tượng ấy không thuộc pháp thân. Chỉ nên sùng bái những ý tưởng phát ra từ
Phật tánh. Phải bỏ tất cả những giả tưởng về thần thánh linh thiêng vì đó chính
là những ảo tưởng phù phiếm. Không nên thờ kính những vật giả tưởng đó mà cũng
chẳng phải sợ hãi những thứ đó. Cũng nên quẳng bỏ tất cả những ảo ảnh về chư Phật.
Ảo ảnh chỉ là những ảo tưởng phù phiếm.
Phần Thứ Sáu: Thiền Luận
Không có gì quí hơn những ý tưởng vô hình của tâm phát ra từ Phật tánh. Chỉ
có một điều ta thấy thật sự là: Pháp thân ở nơi Ta. Phật là một tiếng Ấn Ðộ,
không phải tên người và có nghĩa là giác ngộ, linh giác mà mọi người có thể đạt
tới được. Sự giác ngộ này chính là thiền. Những kẻ đối nghịch với chúng ta
không thể hiểu được giá trị mà chúng ta đem vào danh từ thiền. Thiền không có
nghĩa là tham thiền, suy tưởng. Ta chỉ đạt đến thiền khi ta thấy được Phật tánh
ở chính mình. Một người đọc vô số kinh luận mà không kiến tánh thì chỉ là kẻ
phàm tục tầm thường. Ðạo lý ta khó hiểu đối với mọi người vì ngôn từ không đủ
khả năng diễn tả được đạo. Chỉ có kẻ nào đạt được mới hiểu. Ta có thể nói với
những môn đồ ta như vầy: Các ngươi phải đạt đến Phật tánh nơi các ngươi tức là
pháp thân nơi các ngươi. Làm thế nào diễn tả được... và bởi vì không thể nói ra
được nên tất cả những kinh luận đều vô ích. Kinh luận chỉ là những câu chuyện phù
phiếm, đi quanh vấn đề. Kiến tánh là một hành động giản dị. Kiến tánh không thể
chia ra thành từng phần nên ta không thể tri và hành từng phần một. Kiến tánh
cũng giống như nuốt một thứ đồ ăn, cũng giản dị và lập tức như thế. Người ta
không bao giờ thuyết lý viễn vông chung quanh sự nuốt đồ ăn. Ta biết nuốt hay
không biết nuốt. Chỉ có thế thôi! Kẻ nào tưởng tượng một thực tại ngoài Phật
tánh bên trong và tìm cách xác định thực tại ấy, kẻ ấy rơi vào sai lầm nghiêm
trọng. Tất cả những ý tưởng ngoài ý tưởng về Phật tánh nội tại chỉ là những
bóng ma phù phiếm. Chính những ý tưởng đó sinh ra bóng ma, những sai lầm và giữ
con người triền miên trong vòng luân hồi. Con người sẽ được giải thoát khi đã
phủ nhận tất cả những bóng ma và những sai lầm ấy, đồng thời gắn liền với Phật
tánh ở trong nội tại. Giây phút giác ngộ này, giây phút giải thoát này, mỗi người
hãy tự mình đi đến. Giáo lý chỉ có thể giúp người ta chuẩn bị. Giáo lý không thể
tạo ra giác ngộ. Mộng không thể học được. Chết không thể học được. Lãnh hội Phật
tánh nơi chính mình cũng không thể học được. Pháp thân rất giản dị. Ta không thể
tạo ra được mà chỉ lãnh hội được. Kẻ nào đã lãnh hội được pháp thân thì không cần
thiên đàng, không còn địa ngục, không còn mình, không còn kẻ khác, không còn gì
bên ngoài. Vậy việc lãnh hội pháp thân là việc của đức tin tuyệt đối, không mảy
may pha lẫn bóng tối ngờ vực. Khi người ta mộng, người ta không bao giờ nghi ngờ
bởi vì người ta thấy thực tánh của mình. Trong khi thức, ta cũng phải tin tưởng
vững chắc như vậy dù có bị những ảo tưởng của giác quan và những sai lầm của
trí tưởng tượng ràng buộc.
Phần thứ bảy: Vô Minh
Ðối với những người đã khám phá được bóng hình của mình và không còn bị bất
cứ một hệ lụy nào ràng buộc, thì bất cứ một hành động nào của thể xác vật chất
cũng không có thể ảnh hưởng đến pháp thân. Một kẻ phàm tục làm nghề đồ tể cũng
có thể là một vị Phật. Kẻ nào đã lãnh hội được Phật tánh thì không tạo nghiệp nữa
dù làm bất cứ một hành động nào bởi vì kẻ ấy đã giác ngộ. Nghiệp chỉ đeo đuổi
những người chưa giác ngộ vì những người đó còn trong vòng u tối vô minh. Chính
sự ngu muội này đã tạo ra vòng đầu thai, luân hồi ở địa ngục, làm thú và làm
người. Tất cả nợ tinh thần chấm dứt ngay khi giác ngộ phá hủy vô minh. Bậc giác
ngộ không làm nên tội lỗi và cũng không phạm tội nữa.
Phần thứ tám: Giác Ngộ
Ta phải giảm dần những ấn tượng, bớt dần tham vọng, (bớt dần) tập trung và an trí. Ðó là chuẩn bị. Kinh kệ, tu khổ hạnh, công trình
nghiên cứu học hành đều chẳng có lợi ích gì cả. Kiến tánh không thể học được. Tại
sao có những người đã chuẩn bị cẩn thận và có thành tâm đứng đắn mà vẫn không
kiến được tánh? Bởi vì nghiệp của họ chống đối lại. Sự hôn mê mù quáng của họ,
sự sai lầm chai cứng của họ, sự bất lực của họ là những hình phạt về những tội
lỗi của họ trong quá khứ. Họ chưa trả hết nợ. Họ chưa đủ trong sạch để đạt được
giác ngộ. Ðây là nợ tinh thần và nỗ lực cá nhân chứ không phải do địa vị xã hội.
Phần thứ chín: Phật là gì?
Ta đến Trung Hoa để truyền bá tâm ấn, đạo lý mới lạ ở đây chưa ai biết. Phật
ở trong tâm mỗi người. Giữ giới luật, tu khổ hạnh, cầu kinh, nghiên cứu nghĩa
lý, tất cả những thứ này chẳng dùng được việc gì cả. Mục đích duy nhất mà mọi
người phải đạt được là giác ngộ. Khi nào đạt được giác ngộ là thành Phật, một vị
Phật như tất cả chư Phật dù cho kẻ ấy không đọc được một chữ nào cả. Thành Phật
nghĩa là thấy Phật tánh nơi mình, nơi tâm mình, nơi tâm của tâm mình. Phật tánh
vô hình, không thể rờ mó được, bản thể của nó mong manh như hư không. Tâm ấy mọi
người đều mang trong mình.
Tâm hỡi, tâm ơi!
Mi lớn đến nỗi bao trùm cả vũ trụ.
Mi nhỏ đến nỗi mũi kim không thể xuyên qua được.
Hỡi tâm của ta! Mi là Phật.
Chính vì mi mà ta phải qua Trung Hoa để giảng truyền đạo lý.
No comments:
Post a Comment