Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Sách Thứ Tám Mươi Lăm
Số 2831
Luận Vô Tâm - Một Quyển
Thích Bồ Đề Đạt
Ma Soạn
Thánh Tri Phỏng
Việt Dịch
Lời Nói Đầu
Vô Tâm Luận là một trong những tác phẩm
kinh sách thuộc Giáo Môn xưa được tìm thấy ở động Đôn Hoàng đầu thế kỷ 20. Tuy
sách có ghi là của Tổ Bồ Đề Đạt Ma chế, nhưng có nhiều học giả lại cho rằng đây
là bài của Tổ Pháp Dung ở núi Ngưu Đầu. Tôi cũng đồng ý với các vị học giả rằng
bài này có lẽ là của ngài Pháp Dung vì cách dùng văn chữ Hán rất giỏi và có nét
phong thái của Nhà Nho hay đã từng học chữ Hán từ nhỏ vậy. Đặc biệt hơn nữa là
lời nói văn phong không giống hành trạng của tổ Bồ Đề Đạt Ma, vì cách hành văn và
tư tưởng vẫn thuộc Giáo Môn chứ không phải Thiền Tông.
Tôi tìm xem trên mạng chỉ thấy có hai bản
đã được Việt dịch. Một là của cố Hòa Thượng Thích Tắc Pháp. Hai là của Trần
Quang Đức. So sánh hai bản dịch này thì bản dịch của cố HT Thích Tắc Pháp mới
đúng hơn vì ngài là người xuất gia và có nghiên cứu Thiền Tông, nên dịch chính
xác hơn. Có những chỗ, những chữ mà sách viết sai, tôi thấy Hòa Thượng sửa lại
cho đúng và tôi cũng đồng ý hoàn toàn với Hòa Thượng. Nếu đọc qua loa, hoặc
không hiểu Thiền Tông thì ắt sẽ khó nhận ra những chỗ sai lầm không đúng của
người đời sau ghi chép lại.
Vậy đã có người dịch rồi sao tôi còn phí
thời giờ mà dịch thêm một bản nữa để làm gì? Bởi vì dịch tức là học vậy. Do dịch,
do công phu mò từng chữ gốc bản Hán mới có thể hiểu được sâu hơn và rõ ràng
hơn. Nếu chỉ đọc sách của người khác đã dịch sẵn mà không tra cho đến tận nguồn
gốc thì thật chưa phải là học được trọn vẹn vậy. Nếu người ta dịch sai, e rằng
mình cũng chẳng biết những cái sai ấy, tức sẽ sanh ra nhiều hiểu lầm, và cũng
là sự thiếu sót trong việc học tập. Do vì đối chiếu nhiều mặt, nhiều bản dịch,
cũng như xét lại nơi đường tâm của chính mình mới có thể giúp cho mình có cái
nhìn thoáng hơn, rộng hơn, và biết rõ được đâu là đúng sai, hay dỡ. Đúng sai
hay dỡ đều đáng cho mình học cả bởi vì nếu dỡ thì mình bỏ cái dỡ để lấy cái
hay, còn nếu đúng thì mình lấy cái đúng mà bỏ cái sai ấy. Có như vậy thì mình mới
học hỏi được rộng sâu và gặt hái được nhiệu lợi ích trong việc nghiên cứu tu tập
vậy.
Hơn nữa tôi tìm không thấy phần Hán-Việt
nên dịch ra bản này tôi có cả ba bài, một bằng chữ Hán, hai bằng chữ Hán-Việt,
và ba là bằng chữ Việt. Thiết nghĩ cả ba bài đều không thể thiếu cho người
nghiên cứu tu tập.
Như vậy thì dịch thêm một bản Vô Tâm Luận
này cốt yếu là để giúp mình tiện lợi nghiên cứu học tập tu hành, chứ chẳng phải
muốn khuếch trương cái ngu của mình hoặc mong sánh ngang hàng cùng các bậc trưởng
thượng tri thức đi trước. Cũng mong góp một chút sức mọn cho Phật Pháp được
sáng tỏ, đặc biệt là Thiền Tông, ngỏ hầu mang lại sự chánh tri chánh kiến cũng
như lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh. Vậy, kính mong các bậc tri thức xa gần
thương tình lượng thứ cho cái tri thức kém cỏi của tôi mà chỉ dạy thêm cho.
Tuy bài văn này thuộc Giáo Môn nhưng
cũng có thể làm chỗ khởi đầu kích thích người sơ phát tâm tìm đến Đại Thừa, đặc
biệt là Thiền Tông Tối Thượng Thừa. Nguyện cho kẻ thấy người nghe, ai nấy cũng
đồng nhận được con đường hướng thượng, đồng triệt ngộ Vô Tâm (Chân Tâm), chứ chẳng
phải vô tâm của “có, không” và vô tâm của tâm ý hí luận.
Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thánh
Tri Kính Viết
San
Antonio, Texas
Mùa
Hạ Ngày 3 tháng 7 năm 2016
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Sách Thứ Tám Mươi Lăm
Số 2831
Luận Vô Tâm - Một Quyển
Thích Bồ Đề Đạt
Ma Soạn
Thánh Tri Phỏng
Việt Dịch
Xét cho cùng thì chân lý rốt ráo không lời,
nhưng phải mượn lời để hiển bày cái lý. Đạo lớn không tướng, nhưng phải lấy cái
thô bên ngoài mà hiện cái hình. Nay hãy tạm giả lập ra hai người để cùng bàn về
cái học thuyết của Vô Tâm vậy.
Đệ tử hỏi Hòa Thượng rằng: Có tâm hay
không tâm?
Đáp rằng: Không tâm.
Hỏi rằng: Đã nói không tâm thì ai có thể
thấy, nghe, hay, biết? Ai biết không tâm?
Đáp rằng: Vẫn là không tâm đã thấy,
nghe, hay, biết. Vẫn là không tâm có thể biết không tâm.
Hỏi rằng: Nếu đã không tâm tức đáng lẽ
không có thấy, nghe, hay, biết. Làm sao có thể thấy, nghe, hay, biết được?
Đáp rằng: Tuy ta không tâm nhưng có thể
thấy, có thể nghe, có thể hay, có thể biết.
Hỏi rằng: Đã có thể thấy, nghe, hay, biết
tức là có tâm, đâu được nói không?
Đáp rằng: Chỉ là thấy, nghe, hay, biết tức
là không tâm. Chỗ nào lại lìa thấy, nghe, hay, biết riêng có không tâm? Nay thầy
sợ con không hiểu, mỗi mỗi sẽ vì con giải nói khiến con được ngộ chân lý. Giả
như thấy, trọn ngày thấy mà do vì không thấy nên thấy cũng không tâm. Nghe, trọn
ngày nghe do vì không nghe nên nghe cũng không tâm. Hay, trọn ngày hay do vì
không hay nên hay cũng không tâm. Biết, trọn ngày biết do vì không biết nên biết
cũng không tâm. Trọn ngày tạo tác, làm cũng như không làm, nên làm cũng như
không tâm. Cho nên biết thấy, nghe, hay, biết tất cả đều là không tâm.
Hỏi rằng: Làm sao có thể biết được đó là
vô tâm?
Đáp rằng: Con hãy tỉ mỉ suy xét tìm xem,
tâm khởi lên tướng mạo gì? Tâm ấy có thể nắm bắt được không? Là tâm hay chẳng
phải là tâm? Là ở bên trong? Là ở bên ngoài? Hay ở khoảng giữa? Như thế cả ba
chỗ suy xét tìm tâm trọn chẳng thể được. Cho đến đối với tất cả chỗ tìm kiếm
cũng không thể được. Nên ngay đó biết là không tâm.
Hỏi rằng: Hòa Thượng đã nói tất cả chỗ đều
là không tâm, thì đúng ra không có tội phước. Cớ sao chúng sanh luân hồi lục thú1, sanh tử chẳng dứt?
Đáp rằng: Chúng sanh mê vọng, ở trong
Không Tâm mà vọng sanh tâm, tạo bao thứ nghiệp, vọng chấp là có, đủ để khiến
cho luân hồi lục thú, sống chết không ngừng. Ví như có người ở trong tối thấy
cây trơ trụi cành lá mà cho là ma, thấy sợi dây mà cho là rắn, liền sanh sợ
hãi. Chúng sanh vọng chấp cũng lại như thế, ở trong Không Tâm mà vọng chấp có
tâm, tạo bao thứ nghiệp, tuy vọng mà thật không ai mà chẳng luân hồi lục thú.
Những chúng sanh như thế nếu gặp được bậc Đại Thiện Tri Thức dạy cho tọa thiền, giác ngộ Không Tâm, thì tất
cả nghiệp chướng thảy đều sạch hết, sanh tử liền dứt. Thí như trong tối, ánh
sáng mặt trời vừa chiếu đến thì bóng tối đều hết. Nếu ngộ Không Tâm thì tất cả
tội diệt cũng đều như thế.
Hỏi rằng: Đệ tử ngu muội tâm còn chưa thấu
rõ được tất cả chỗ dùng của lục căn ứng ra. Hỏi2 rằng: Từ nói năng cho đến hết thảy hành vi, phiền
não, Bồ Đề, sanh tử, Niết Bàn, rốt ráo là không tâm chăng?
Đáp rằng: Rốt ráo là không tâm. Chỉ vì
chúng sanh vọng chấp có tâm liền có tất cả phiền não, sanh tử, Bồ Đề, Niết Bàn.
Nếu ngộ Không Tâm thì không tất cả phiền não, sanh tử, Niết Bàn. Vậy nên đức
Như Lai vì người có tâm mà nói có sanh tử, Bồ Đề đối với phiền não mà có tên,
Niết Bàn đối với sinh tử mà có tên. Những
thứ ấy đều là pháp đối trị. Nếu không có tâm có thể được thì phiền não, Bồ Đề
cũng không thể được, cho đến sanh tử, Niết Bàn cũng không thể được.
Hỏi rằng: Bồ Đề Niết Bàn đã không thể được,
vậy quá khứ chư Phật đều được Bồ Đề, nghĩa này là sao?
Đáp rằng: Chỉ do văn tự của thế đế mà
nói là được, đối với chân đế thì thật không thể được. Cho nên Kinh Duy Ma nói: “Bồ Đề không thể do thân đắc, không thể do
tâm đắc.” Lại Kinh Kim Cang nói: “Không
có một chút pháp có thể đắc. Chư Phật Như Lai chỉ do không thể đắc mà đắc.”
Nên biết có tâm thì tất cả có, không tâm thì tất cả không.
Hỏi rằng: Hòa Thượng đã nói đối với tất
cả chỗ thẩy đều không tâm, gỗ đá cũng không tâm, há chẳng đồng với gỗ đá ư?
Đáp rằng: Không Tâm của con và thầy, tâm
ấy chẳng đồng gỗ đá. Vì sao thế? Thí như trống trời tuy lại không tâm mà tự
nhiên phát ra tất cả diệu pháp giáo hóa chúng sanh. Lại như viên châu như ý,
tuy lại vô tâm mà tự nhiên có thể làm cho mọi thứ biến hiện ra. Vô tâm của con
và thầy cũng lại như thế, tuy lại không tâm mà khéo hay giác rõ thật tướng của
các pháp, đầy đủ Bát Nhã chân thật, ba thân tự tại, ứng dụng không ngại. Cho
nên Kinh Bảo Tích nói: “Do không tâm ý mà
hiện hành.” há đồng gỗ đá ư?! Cái Không Tâm này tức là Chân Tâm, Chân Tâm tức
là Không Tâm vậy.
Hỏi rằng: Nay ở trong tâm làm sao tu
hành?
Đáp rằng: Chỉ ở trên tất cả việc giác rõ
vô tâm tức là tu hành. Ngoài ra chẳng riêng có tu hành nào khác. Nên biết vô
tâm tức tất cả, tịch diệt tức không tâm vậy.
Vị đệ tử lúc đó bỗng nhiên đại ngộ, mới
biết ngoài tâm không vật, ngoài vật không tâm, mọi cử chi hành động đều được tự
tại, dứt sạch mọi lưới nghi, hoàn toàn không ngăn ngại, liền đứng dậy làm lễ, nghi
nhớ Không Tâm bèn làm bài tụng rằng:
Tâm thần vốn tịch
Không sắc không hình
Nhìn mà không thấy
Nghe mà không tiếng
Tợ tối không tối
Như sáng không sáng
Bỏ mà không mất
Lấy mà không sanh
Lớn thì rộng khắp pháp giới
Nhỏ thì đầu long chẳng lọt
Phiền não trộn mà không đục
Niết Bàn lắng mà chẳng trong
Chân Như vốn không phân biệt
Hay biện hữu tình vô tình
Thu về thì tất cả chẳng lập
Buông ra thì rộng khắp hàm linh
Diệu Thần chẳng biết chỗ lường
Chánh Giác3 dứt chỗ tu hành
Diệt thì không thấy nó hoại4
Sanh thì không thấy nó thành
Đại đạo lặng lẽ không tướng
Vạn tượng im bặt không tên
Như đây vận dụng tự tại
Đều là tinh túy của Không Tâm
Hòa Thượng lại bảo rằng: Trong các loại
Bát Nhã thì Không Tâm Bát Nhã ấy là tối thượng. Cho nên Kinh Duy Ma Cật nói: “Do không tâm ý, không thọ hành mà phá vở
hàng phục tất cả ngoại đạo.” Lại Kinh Pháp Cổ nói: “Nếu biết không tâm có thể được, thì pháp tức không thể được, tội phúc
cũng không thể được, sanh tử Niết Bàn cũng không thể được, cho đến tất cả trọn
không thể được, không thể được cũng không thể được.” Bèn làm bài tụng rằng:
Ngày trước mê thời do có tâm
Giờ đây ngộ rồi rõ không tâm
Tuy rằng không tâm hay chiếu dụng
Chiếu dụng thường lặng tức Như Như
Lại viết:
Không tâm không chiếu cũng không dụng
Không chiếu không dụng tức vô vi
Đó là Như Lai Chân Pháp Giới
Chẳng đồng Bồ Tát với Bích Chi
Nói không tâm đó tức không tâm vọng tưởng5 vậy.
Lại hỏi: Sao gọi là Thái Thượng?
Đáp rằng: Thái là lớn. Thượng là cao. Diệu
lý cùng tột nên gọi là Thái Thượng vậy. Lại, Thái là ngôi của thông thái vậy.
Trời trong ba cõi tuy có tuổi thọ lâu dài mà phước hết thì cuối cùng cũng luân
hồi nơi sáu thú, chưa đủ cho là Thái. Bồ Tát Thập Trụ tuy ra khỏi sanh tử mà Diệu
Lý chưa cùng tột cũng chưa cho là Thái. Hàng Thập Trụ tu tâm, quên6 Có vào Không, lại không
cái “Có, Không” ấy, trừ bỏ cả hai cái ấy mà không quên7 Trung Đạo cũng chưa cho là Thái. Lại quên Trung Đạo,
ba chỗ đều dứt hết, địa vị đều là Diệu Giác. Bồ Tát tuy trừ hết ba chỗ mà không
thể không cái Diệu kia, thì cũng chưa cho là Thái. Lại quên cái Diệu kia thì Phật
Đạo rất tột, tức không còn giữ lại điều gì, không giữ lại thì nghĩ suy ắt không, nghĩ lo8 đồng quên9, tâm trí hằng dứt, giác
chiếu đều hết, lặng lẽ vô vi, ấy mới gọi là Thái vậy. Thái là cái nghĩa cùng cực
của Chân Lý. Thượng thì không có cái gì bằng, vì vậy nói là Thái Thượng, tức là
tên khác của chư Phật Như Lai vậy.
Luận Vô Tâm Một Quyển
大正新脩大藏經 第八十五冊 No. 2831
無心論一卷
釋菩提達摩製
釋菩提達摩製
弟子問和尚曰。有心無心
答曰。只是見聞覺知。即是無心。何處更離見聞覺知別有無心。我今恐汝不解。一一為汝解說。令汝得悟真理。假如見終日見由為無見。見亦無心。聞終日聞由為無聞。聞亦無心。覺終日覺由為無覺。覺亦無心。知終日知由為無知。知亦無心終日造作。作亦無作。作亦無心。故云見聞覺知總是無心
問曰。若為能得知是無心
答曰。眾生迷妄。於無心中而妄生心。造種種業。妄執為有。足可致使輪迴六趣生死不斷。譬有人於暗中見杌為鬼見繩為蛇便生恐怖。眾生妄執亦復如是。於無心中妄執有心造種種業。而實無不輪迴六趣。如是眾生若遇大善知識教令坐2禪覺悟無心。一切業障盡皆銷滅生死即斷。譬如暗中日光一照而暗皆盡。若悟無心。一切罪滅亦復如是
答曰。定是無心。只為眾生妄執有心即有一切煩惱生死菩提涅槃。若覺無心即無一切煩惱生死涅槃。是故如來為有心者說有生死。菩提對煩惱得名。涅槃者對生死得名。此皆對治之法。若無心可得。即煩惱菩提亦不可得。乃至生死涅槃亦不可得
答曰。而我無心心不同木石。何以故。譬如天鼓。雖復無心自然出種種妙法教化眾生。又如如意珠。雖復無心自然能作種種變現。而我無心亦復如是。雖復無心善能覺了諸法實相具真般若三身自在應用無妨。故寶積經云。以無心意而現行。豈同木石乎。夫無心者即真心也。真心者即無心也
心神向寂
無色無形
似暗非暗
取之無生
總是無心之精
昔日迷時為有心
照用常寂即如如
無心無照亦無用
不同菩薩為辟支
言無心者即無妄相6心也。
答曰。太者大也。上者高也。窮高之妙理故云太上也。又太者通泰之位也。三界之天雖有延康之壽福盡。是故終輪迴六趣。未足為太。十住菩薩雖出離生死。而妙理未極。亦未為太。十住修心妄7有入無。又無其無有雙遣不妄8中道。亦未為太。又忘中道三處都盡。位皆妙覺。菩薩雖遣三處。不能無其所妙。亦未為太。又忘其妙則佛道至極。則無所存。無存思則無思慮9兼妄10。心智永息。覺照俱盡。寂然無為。此名為太也。太是理極之義。上是無等色。故云太上。即之佛如來之別名也。
無心論一卷
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Đệ Bát Thập Ngũ Sách
Số 2831
Vô Tâm Luận – Nhất Quyển
Thích Bồ Đề Đạt
Ma Chế
Phù chí lý vô ngôn, yếu giả ngôn nhi hiển
lý, đại đạo vô tướng vị tiếp thô nhi hiện hình. Kim thả giả lập nhị nhân, cộng
đàm vô tâm chi luận hĩ.
Đệ tử vấn Hòa Thượng viết: Hữu tâm, vô
tâm?
Đáp viết: Vô tâm
Vấn viết: Kí vân vô tâm thùy năng kiến,
văn, giác, tri? Thùy tri vô tâm?
Đáp viết: Hoàn thị vô tâm kí kiến, văn,
giác, tri. Hoàn thị vô tâm năng tri vô tâm.
Vấn viết: Kí nhược vô tâm tức hợp vô hữu
kiến, văn, giác, tri. Vân hà đắc hữu kiến, văn, giác, tri?
Đáp viết: Ngã tuy vô tâm năng kiến, năng
văn, năng giác, năng tri.
Vấn viết: Kí năng kiến, văn, giác, tri,
tức thị hữu tâm na đắc xưng vô?
Đáp viết: Chỉ thị kiến, văn, giác, tri tức
thị vô tâm. Hà xứ cánh ly kiến, văn, giác, tri biệt hữu vô tâm. Ngã kim khủng
nhữ bất giải, nhất nhất vị nhữ giải, thuyết linh nhữ đắc ngộ chân lý, giả như
kiến chung nhật kiến do vị vô kiến kiến diệc vô tâm. Văn chung nhật văn do vị
vô văn, văn diệc vô tâm; giác chung nhật giác do vị vô giác, giác diệc vô tâm;
tri chung nhật tri do vị vô tri, tri diệc vô tâm. Chung nhật tạo tác, tác diệc
vô tác, tác diệc vô tâm. Cố vân kiến, văn, giác, tri tổng thị vô tâm.
Vấn viết: Nhược vi năng đắc tri thị vô
tâm?
Đáp viết: Nhữ đãn tử tế thôi cầu khan,
tâm tác hà tướng mạo? Kì tâm phục khả đắc? Thị tâm? Bất thị tâm? Vi phục tại nội?
Vi phục tại ngoại? Vi phục tại trung gian? Như thị tam xứ thôi cầu, mịch tâm liễu
bất khả đắc. Nãi chí ư nhất thiết xứ cầu mịch diệc bất khả đắc. Đương tri tức
thị vô tâm.
Vấn viết: Hòa thượng kí vân nhất thiết xứ
tổng thị vô tâm, tức hợp vô hữu tội phúc. Hà cố chúng sanh luân hồi lục thú1 sanh tử bất đoạn?
Đáp viết: Chúng sanh mê vọng, ư vô tâm
trung nhi vọng sanh tâm, tạo chủng chủng nghiệp, vọng chấp vi hữu, túc khả trí sử
luân hồi lục thú sanh tử bất đoạn. Thí hữu nhân ư ám trung, kiến diện ngột vi
quỷ, kiến thẳng vi xà, tiện sanh khủng bố. Chúng sanh vọng chấp diệc phục như
thị, ư vô tâm trung vọng chấp hữu tâm, tạo chủng chủng nghiệp, nhi thật vô bất
luân hồi lục thú. Như thị chúng sanh nhược ngộ Đại Thiện Tri Thức giáo lệnh tham2 thiền giác ngộ Vô Tâm.
Tất cả nghiệp chướng tận giai tiêu diệt, sanh tử tức đoạn. Thí như ám trung nhật
quang, nhất chiếu nhi ám giai tận. Nhược ngộ Vô Tâm, nhất thiết tội diệt diệc
phục như thị.
Vấn viết: Đệ tử ngu muội tâm do vị liễu
thẩm nhất thiết xứ lục căn sở dụng giả ứng. Vấn3 viết: Ngữ chủng chủng thi vi, phiền não, Bồ Đề,
sanh tử, Niết Bàn, định vô tâm phủ?
Đáp viết: Định thị vô tâm. Chỉ vi chung
sanh vọng chấp hữu tâm tức hữu nhất thiết phiền não, sanh tử, Bồ Đề, Niết Bàn.
Nhược giác vô tâm tức vô nhất thiết phiền não, sanh tử, Niết Bàn. Thị cố Như
Lai vi hữu tâm giả thuyết hữu sinh tử, Bồ Đề đối phiền não đắc danh, Niết Bàn đối
sinh tử đắc danh, thử giai đối trị chi pháp. Nhược vô tâm khả đắc tức phiền
não, Bồ Đề diệc bất khả đắc, nãi chí sanh tử, Niết Bàn bất khả đắc.
Vấn viết: Bồ Đề Niết Bàn ký bất khả đắc,
quá khứ chư Phật giai đắc Bồ Đề thử vị khả hồ?
Đáp viết: Đãn dĩ thế đế văn tự chi ngôn
đắc, ư chân đế thật vô khả đắc. Cố Duy Ma Kinh vân: “Bồ Đề giả bất khả dĩ thân đắc, bất khả dĩ tâm đắc.” Hựu Kim Cang
Kinh vân: “Vô hữu thiểu pháp khả đắc. Chư
Phật Như Lai đã dĩ bất khả đắc nhi đắc.” Đương tri hữu tâm tức nhất thiết hữu,
vô tâm nhất thiết vô.
Vấn viết: Hòa Thượng ký vân ư nhất thiết
xứ tận giai vô tâm, mộc thạch diệc vô tâm, khởi bất đồng ư mộc thạch hồ?
Đáp viết: Nhi ngã vô tâm, tâm bất đồng mộc
thạch. Hà dĩ cố? Thí như thiên cổ tuy phục vô tâm, tự nhiên xuất chủng chủng diệu
pháp giáo hóa chúng sanh. Hựu như như ý châu tuy phục vô tâm tự nhiên năng tác
chủng chủng biến hiện. Nhi ngã vô tâm diệc phục như thị, tuy phục vô tâm thiện
năng giác liễu chư pháp thật tướng, cụ chân Bát Nhã, tam thân tự tại, ứng dụng
vô phương. Cố Bảo Tích Kinh vân: “Dĩ vô
tâm ý nhi hiện hành.” khởi đồng mộc thạch hồ?! Phù vô tâm giả tức chân tâm
dã, chân tâm giả tức vô tâm dã.
Vấn viết: Kim ư tâm trung tác nhược vi
tu hành?
Đáp viết: Đãn ư nhất thiết sự thượng
giác liễu vô tâm tức thị tu hành, cánh bất biệt hữu tu hành. Cố tri vô tâm tức
nhất thiết, tịch diệt tức vô tâm dã, đệ tử ư thị hốt nhiên đại ngộ, thủy tri
tâm ngoại vô vật, vật ngoại vô tâm, cử chỉ động dụng giai đắc tự tại, đoạn chư
nghi võng, cánh vô quái ngại, tức khởi tác lễ nhi minh vô tâm nãi vi tụng viết:
Tâm thần hướng tịch
Vô sắc vô hình
Đổ chi bất kiến
Thính chi vô thanh
Tự ám phi ám
Như minh bất minh
Xả chi bất diệt
Thủ chi vô sanh
Đại tức khuếch chu pháp giới
Tiểu tức mao kiệt bất đình
Phiền não hỗn chi bất trọc
Niết Bàn trừng chi bất thanh
Chân Như bổn vô phân biệt
Năng biện hữu tình vô tình
Thu chi nhất thiết bất lập
Tán chi phổ biến hàm linh
Diệu thần phi tri sở trắc
Chánh giác4 tuyệt ư tu hành
Diệt tắc bất kiến kỳ hoại5
Sanh tắc bất kiến kỳ thành
Đại đạo tịch hào vô tướng
Vạn tượng yểu hào vô danh
Như tư vận dụng tự tại
Tổng thị vô tâm chi tinh
Hòa thượng hựu cáo viết: Chư Bát Nhã
trung dĩ Vô Tâm Bất Nhã nhi vi tối thượng. Cố Duy Ma Kinh vấn: “Dĩ vô tâm ý vô thụ hành nhi tất tồi phục
ngoại đạo.” Hựu Pháp Cổ Kinh: “Nhược
tri vô tâm khả đắc, pháp tức bất khả đắc, tội phúc diệc bất khả đắc, sanh tử Niết
Bàn diệc bất khả đắc, nãi chí nhất thiết tận bất khả đắc, bất khả đắc diệc bất
khả đắc”. Nãi vi tụng viết:
Tích nhật mê thì vi hữu tâm
Nhĩ thời ngộ bãi liễu vô tâm
Tuy phục vô tâm năng chiếu dụng
Chiếu dụng thường tịch tức Như Như
Trùng viết:
Vô tâm vô chiếu diệc vô dụng
Vô chiếu vô dụng tức vô vi
Thử thị Như Lai Chân Pháp Giới
Bất đồng Bồ Tát vi Bích Chi
Ngôn vô tâm giả tức vô vọng tưởng6 tâm dã.
Hựu vấn: Hà danh vi Thái Thượng?
Đáp viết: Thái giả đại dã, Thượng giả
cao dã, cùng cao chi diệu lý cố vân thái thượng dã, hựu thái giả thông thái chi
vị dã. Tam giới chi thiên tuy hữu diên khang chi thọ phúc tận thị cố chung luân
hồi lục thú vị túc vi thái. Thập Trụ Bồ Tát tuy xuất ly sanh tử nhi diệu lý vị
cực diệc vị vi thái. Thập Trụ tu tâm vong7
hữu nhập vô, hựu vô kỳ vô hữu, song khiển, bất vong8 trung đạo diệc vị vi Thái. Hựu vong trung đạo, tam
xứ đô tận, vị giai Diệu Giác. Bồ Tát tuy vị khiển tam xứ, bất năng vô kỳ sở diệu,
diệc vị vi Thái. Hựu vong ký Diệu tắc Phật Đạo chí cực, tắc vô sở tồn, vô tồn tư tắc vô, tư lự9 kiêm vong10, tâm trí vĩnh tức,
giác chiếu câu tận, tịch nhiên vô vi, thử danh vi Thái da. Thái thị lý cực chi
nghĩa. Thượng thị vô đẳng sắc. Cố vân Thái Thượng tức chi Phật Như Lai chi biệt
danh dã.
Vô Tâm Luận Nhất Quyển
Ghi Chú:
1.
Sách ghi là 六 聚
= Lục Tụ, nhưng đáng lý là Lục Thú thì mới có nghĩa. Vì ở văn sau cũng nói là 六 趣 = Lục Thú. Do vậy
sách viết sai từ, nên để là Lục Thú.
2.
Sách
ghi là 坐禪 = Tọa Thiền. Nhưng đổi lại thành 參禪 = Tham Thiền thì mới hợp với Thiền Tông. Bởi Thiền là Tâm Thiền
chứ không phải Thân Tọa. Lục Tổ Huệ Năng cũng nói “Đạo do Tâm Ngộ bất tại Tọa.” (Đạo do Tâm Ngộ chẳng do Ngồi)
3.
Sách
ghi là 答曰 = Đáp Rằng, nhưng thấy không có
nghĩa vì vị đệ tử đang hỏi. Cho nên sửa lại thành 問曰= Hỏi
Rằng cho dễ hiểu.
4.
Sách
ghi là 正覓 = Chánh Mịch nhưng không có nghĩa, chữ mịch
thấy giống chữ giác (覺)
nên ghi là 正覺 = Chánh Giác cho dễ hiểu.
5.
Sách
ghi là 懷
= Hoài, nhưng không có nghĩa, phải là 壞 = Hoại mới có thể
đối với câu sau là [成] = Thành. Vì thế sách viết sai từ, nên
để là Hoại.
6.
Sách
ghi là 相= Tướng nhưng có
lẽ nên ghi là 想 = Tưởng thì mới
phù hợp.
7.
Sách
ghi là 妄 = Vọng, nhưng 忘 = Vong (Quên) thì mới đúng nghĩa của
bài văn.
8.
Sách
ghi là 妄 = Vọng, nhưng 忘 = Vong (Quên) thì mới đúng nghĩa của
bài văn.
9.
Sách
ghi là “vô tồn tư tắc vô tư lự, kiêm vong9
tâm trí vĩnh tức” nhưng thấy đọc không được trôi trãi và không đúng với ý vị
của thiền tông. Nếu bốn chữ sau là “tâm
trí vĩnh tức” thì bốn chữ trước phải là “tư
lự kiêm vong” mới phù hợp văn phong và có ý nghĩa. Như vậy còn lại năm chữ “vô
tồn tư tắc vô” là một câu. Do vậy sửa lại là “vô tồn tư tắc vô, tư lự kiêm vong, tâm trí vĩnh tức”.
10. Sách
ghi là 妄 = Vọng, nhưng 忘 = Vong (Quên) thì mới đúng nghĩa của
bài văn.
Tài Liệu Tham Khảo:
2.
Vô
Tâm Luận bằng tiếng Hán. Chinese Buddhist Electronic Text Association (CBETA). http://tripitaka.cbeta.org/T85n2831_001
4.
Vô
Tâm Luận. Trần Quang Đức Việt dịch.
No comments:
Post a Comment