溈山大圓禪師警策文
QUY
SƠN ĐẠI VIÊN THIỀN SƯ CẢNH SÁCH VĂN
BÀI VĂN CẢNH
SÁCH CỦA ĐẠI VIÊN THIỀN SƯ Ở NÚI QUY
Tác
Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu
Thánh Tri
Phỏng Việt Dịch
LỜI TỰA
Từng nghe sanh tử là việc lớn, vô
thường lại chóng mau, thật không đợi chờ người. Nếu không quyết tâm ngay đời này
giải thoát thì làm sao thắng nỏi con quỷ vô thường giết người không ngừng trong
mỗi niệm và giải quyết cho xong việc lớn sanh tử? Tuy nhiên, muốn được vậy cũng
cần phải biết đâu là then chốt của sự tu hành. Ngặt nỏi ngày nay cách chư Thánh
Hiền đã xa, Phật pháp chẳng còn mấy ai thông hiểu. Dẫu có hiểu cũng rất sơ sài,
nên dễ sanh tà kiến sai trái, lầm phương tiện cho là cứu cánh, khiến cho Phật
Pháp bị lưu mờ. Thế thì biết nương nơi đâu mà vào Đạo?
Cũng may thay! Tuy các bậc Thánh Hiền
đã viên tịch hoặc ẩn tích, nhưng lời dạy cao đẹp của các ngài vẫn còn âm vang trên
trang giấy, tỏa sáng trong tâm hồn của những kẻ lầm mê, khiến được chợt tỉnh mà
biết đường về. Điển hình là bài văn cảnh sách này của Tổ Quy Sơn (năm 771-853).
Ngài là bậc triệt ngộ xuất chúng dưới tòa của Tổ Bá Trượng, là đời thứ tư của
dòng Tào Khê, là người sáng lập ra tông Quy Ngưỡng, khai mở huệ nhãn cho không
biết bao nhiêu là người tăng kẻ tục, và đã từng tỏa sáng cả một phương trời.
Quy Sơn Cảnh Sách là bài văn nhắc
nhở sách tấn cho đồ chúng dưới tòa của Tổ Quy Sơn. Dù trãi qua đã hơn ngàn năm
nhưng những lời dạy sâu sắc của ngài vẫn còn áp dụng được cho đời sống và sự tu
hành trong hiện tại. Chỉ ngại là chẳng có ai muốn nghe và làm theo vì cho rằng
xa xưa không hợp với thời đại nữa đó thôi! Song, xét cho cùng thì người thời
nay muốn tu giác ngộ giải thoát mà không nghe và không làm theo những lời vàng
ngọc trong sách này thì thật là không thể được! Vậy thì chỉ sợ rằng lời thật mất
lòng, lời ngay trái tai mà thôi, chứ đâu ngại gì đó là lời nói của ngàn năm trước!
Thật diễm phúc khi được đọc những
lời thiết tha nhắc nhở sách tấn của Tổ Quy Sơn. Khi đọc cũng như chính tai được
nghe dưới tòa của ngài trong hiện tại. Nếu biết làm theo thì cũng có thể rửa sạch
thân tâm, dần bớt phiền não, chẳng thể làm Thánh cũng có thể làm Hiền, quả giác
ngộ giải thoát cũng dần mà được, vậy thì đâu thể không cảm kích, vui mừng, ghi
lòng tạc dạ mà vui làm theo ư?
Chính vì thấy mấy lời cảnh sách này
hữu ích, nên chư Tổ từng đời về sau khắp các Tùng Lâm Tự Viện ở Trung Quốc cũng
như Việt Nam đều lấy đó mà dạy các chú Sa Di mới vào chùa. Song, thiết nghĩ những
lời dạy sâu xa như vậy đâu chỉ hạng buộc ở lúc còn làm Sa Di và chỉ dành riêng cho
người xuất gia thôi đâu? Kỳ thật những lời dạy này người nào cũng có thể học tập
tu hành dù là tại gia hay xuất gia, dù đã thọ Thập giới hay Đại giới, và dù là bậc Thượng căn, Trung căn,
hay Hạ căn. Bởi vì việc giải thoát giác ngộ thì ai cũng có thể học tập tu hành
để tự cứu lấy chính mình, báo đền bốn ân ba cõi. Hơn nữa, việc sanh tử chưa giải
quyết xong thì những lời dạy này của Tổ làm sao có thể bỏ qua?
Tổ Quy Sơn dạy: “Nếu có người căn cơ ở bậc Trung, không thể ngay nơi pháp Đốn Ngộ này
mà vượt thoát, thì nên ở nơi giáo pháp mà lưu tâm, tìm học kinh giáo, nghiên cứu
nghĩa lý cho rõ ràng, truyền bá rộng khắp, tiếp đón diều dắt người đời sau, để
báo đền ân đức của Phật.” Lại dạy: “Nói
ra phải phù hợp với kinh điển, luận bàn phải dựa theo khuôn mẫu của người xưa.”
Vì thế, chúng tôi cố gắng nghiên
cứu học tập những lời dạy này của Tổ để tự răng nhắc và sách tấn lấy mình trên
bước đường tu giác ngộ giải thoát, hầu đáp đền ân sâu của Phật, Tổ. Song, tìm đọc
khắp những bản dịch xưa nay thấy những bài đó vì văn từ quá súc tích, cũng như
sát và xa chữ quá, nên khiến cho ý của Tổ Sư bị lưu mờ khó hiểu. Vì vậy cho nên
chúng tôi mới mạo muội, chẳng quảng ngu hèn, dù không biết chữ Hán, nhưng cố gắng
lần mò, đọc tới đọc lui khắp các bản Việt dịch xưa nay, đồng thời dùng từ điển
Hán Việt tra đi xét lại từng chữ kỹ càng, và cũng như dùng sự hiểu biết và kinh
nghiệm tham thiền của chính mình mà “phỏng” dịch ra Việt văn. Vốn dịch sách này
là để tự nghiên cứu học tập và răng nhắc sách tấn cho chính bản thân, đâu dám
có lòng cao ngạo khoe trương để mong sánh ngang hàng cùng những bậc uyên bác,
thạc đức xưa nay. Nhưng chợt nhớ lại lời khuyên của Tổ Quy Sơn ở trên rằng: “tìm học kinh giáo, nghiên cứu nghĩa lý cho
rõ ràng, truyền bá rộng khắp, tiếp đón diều dắt người đời sau, để báo đền ân đức
của Phật.” Lại suy xét kỹ càng thì dịch ra ắt cũng có lợi ích cho người dù
ít dù nhiều, đâu dám đem lòng ích kỷ hẹp hòi che giấu giáo pháp của Phật và Tổ.
Do vậy chúng tôi xin chân thành giới thiệu và gữi khắp các người hữu duyên nơi
giáo Pháp của Phật, ngõ hầu góp một phần nào làm cho người đọc hiểu được ý Tổ
Sư, thấy được con đường hướng Thượng của Đại Thừa, cũng là để cho học giả và
hành giả trong hiện tại và về sau có thêm tài liệu phong phú mà nghiên cứu học
tập tu hành, và giữ gìn truyền mãi bài cảnh sách này để làm lợi ích cho hàng hậu
học về sau, báo đền ân đức của chư Phật và Tổ.
Kính
mong chư tôn Thiền Đức Tăng Già và các vị thiện hữu tri thức gần xa hiểu được
và thương tình cho lòng thành mà từ bi, ủng hộ, và chỉ giáo thêm cho chúng con
được thấm nhuần chỉ thú.
Thành
tâm cảm niệm ân đức cao cả sâu dầy của đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật, chư liệt
vị Tổ Sư, Thánh Hiền Tăng, các bậc thiện hữu tri thức từ xưa đến nay, đã dầy
công tu tập, xả thân vì Đạo để bảo tồn và lưu truyền Pháp bảo cao quý này, để cho
hàng hậu học chúng con vẫn còn được chút phúc duyên mà học tập tu hành ngay hiện
tại. Đặc biệt cảm niệm Hòa Thượng Ân Sư đã từ bi diều dắt, mở đường chỉ lối cho
chúng con được nương nơi pháp Đốn Ngộ của Phật, Tổ mà trực thẳng đến bờ Diệu
Giác, chẳng còn sợ bị lầm đường lạc lối nữa. Vì vậy chúng con xin nguyện y giáo
phụng hành để báo đáp thâm ân.
Đầu mùa Đông năm 2016
Thánh Tri kính viết
溈山大圓禪師警策文
Quy
Sơn Đại Viên Thiền Sư Cảnh Sách Văn
Bài Văn Cảnh Sách Của Đại Viên Thiền Sư ở Núi Quy
Bài Văn Cảnh Sách Của Đại Viên Thiền Sư ở Núi Quy
Tác
Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu
Thánh Tri
Phỏng Việt Dịch
Đoạn 1
Hán:
夫業繫受身。未免形累。禀父母之遺體。假衆緣而共成。雖乃四大扶持。常相違背。
Hán-Việt:
Phù nghiệp hệ thọ
thân, vị miễn hình lụy. Bẩm phụ mẫu chi di thể, giả chúng duyên nhi cộng thành.
Tuy nãi tứ đại phù trì, thường tương vi bội.
Việt:
Do
nghiệp lực trói buộc mà có thân, nên chưa thoát khỏi các khổ lụy về thân. Thọ
nhận cái tinh huyết của cha mẹ, lại vay mượn các duyên mà hợp thành. Tuy nương
nơi bốn đại mà duy trì nhưng bốn đại ấy thường chống trái lẫn nhau.
Đoạn 2
Hán:
無常老病不與人期。朝存夕亡。刹那異世。譬如春霜。曉露。倏忽即無。岸樹。井藤。豈能長久念念迅速。一刹那間。轉息即是來生。何乃晏然空過。
Hán-Việt:
Vô thường lão bịnh bất
dữ nhân kỳ. Triêu tồn tịch vong, sát-na dị thế. Thí như xuân sương, hiểu lộ, thúc
hốt tức vô, ngạn thọ, tỉnh đằng, khởi năng trường cửu. Niệm niệm tấn tốc, nhất
sát-na gian, chuyển tức tức thị lai sanh. Hà nãi yến nhiên không quá?
Việt:
Vô
thường già bệnh không hẹn một ai. Sớm còn tối mất, trong khoảng sát-na đã qua
đời khác. Giống như sương của mùa xuân, móc của ban mai, chốc lát liền không,
như cây bên bờ vực, như những thực vật leo mọc trên vách giếng, làm sao có thể
lâu bền được!? Niệm niệm nhanh chóng nối nhau, trong một sát-na, chuyển hơi thở
thì đã là đời sau. Làm sao có thể yên lòng để đời mình trôi qua vô ích như thế
được?
Đoạn 3
Hán:
父母不供甘旨。六親固以棄離。不能安國治邦。家業頓捐繼嗣。緬離鄉黨。剃髮禀師。内勤克念之功。外弘不諍之德。逈脫塵世。冀期出離。
Hán-Việt:
Phụ mẫu bất cung cam
chỉ, lục thân cố dĩ khí ly, bất năng an quốc trị bang, gia nghiệp đốn quyên kế
tự, miến ly hương đảng, thế phát bẩm sư. Nội cần khắc niệm chi công, ngoại
hoằng bất tránh chi đức, huýnh thoát trần thế, ký kỳ xuất ly.
Việt:
Đối
với cha mẹ không dâng cho miếng ăn ngon ngọt, quyến thuộc cũng quyết rời bỏ xa
lìa, không thể trị an việc nước, lại chấm dứt nối dõi nghiệp nhà, xa làng bỏ
xóm, cắt tóc vâng thầy học Đạo. Vậy nên bên trong cần giữ được cái niệm công
phu tu tập, bên ngoài thì mở rộng cái đức hạnh không tranh chấp, xa rời trần
thế, cầu mong giải thoát.
Đoạn 4
Hán:
何乃纔豋戒品。便言我是比丘。檀越所須。喫用常住。不解忖思來處。謂言法爾合供。喫了聚頭喧喧。但說人間雜話。然則一期趁樂。不知樂是苦因。曩刼徇塵。未嘗返省。時光淹沒。歲月蹉跎。受用殷繁。施利濃厚。動經年載。不擬棄離。積聚滋多。保持幻質。導師有敕。戒勗比丘。進道嚴身。三常不足。人多於此。躭味不休。日往月來。颯然白首。後學未聞旨趣。應須博問先知。將謂出家貴求衣食。
Hán-Việt:
Hà nãi tài đăng giới
phẩm, tiện ngôn ngã thị Tỷ Kheo. Đàn việt sở tu, khiết dụng thường trú, bất
giải thỗn tư lai xứ, vị ngôn pháp nhĩ hiệp cúng. Khiết liễu tụ đầu huyên huyên,
đãn thuyết nhân gian tạp thoại. Nhiên tắc nhất kỳ sấn lạc, bất tri lạc thị khổ
nhân. Nẵng kiếp tuẫn trần, vị thường phản tỉnh. Thời quang yểm một, tuế nguyệt
sa đà, thọ dụng ân phồn, thí lợi nùng hậu, động kinh niên tải, bất nghĩ khí ly.
Tích tụ tư đa, bảo trì huyễn chất. Đạo sư hữu sắc, giới húc Tỷ Kheo, tiến đạo
nghiêm thân, tam thường bất túc. Nhân đa ư thử đam vị bất hưu, nhật vãng nguyệt
lai, táp nhiên bạch thủ. Hậu học vị văn chỉ thú, ưng tu bác vấn tiên tri, tương
vị xuất gia quí cầu y thực.
Việt:
Tại
sao vừa được giới phẩm lại tùy tiện cho mình là bậc Tỳ Kheo? Dùng của thí chủ, ăn
của thường trú, không biết xét nghĩ cho kỹ những thứ ấy từ đâu mà có, lại nói
bừa rằng hiến cúng như vậy là lẽ tất nhiên đúng pháp. Ăn rồi, xúm đầu huyên
náo, chỉ nói toàn những chuyện tạp của thế gian. Nhưng đó là cái vui nhất thời
mà không biết chính cái vui đó lại là nguyên nhân của đau khổ. Bao kiếp xưa
kia, chạy theo trần cảnh, chưa từng phản tỉnh. Thời giờ mãi trôi, năm tháng lần
lữa, hưởng dụng càng nhiều, lợi dưỡng càng lắm, trãi qua nhiều năm mà chẳng
nghĩ tính đến việc rời bỏ. Tích chứa cho nhiều, cũng chỉ vì nuôi giữ lấy cái
thân xác hư huyễn này mà thôi. Đấng Đạo Sư có khuyên răng và khuyến khích Tỳ Kheo
phải giữ thân mà tiến trên đường Đạo, còn ba việc ăn, mặt, và ngủ thường ngày
đừng nên cho đầy đủ quá. Con người đa số đều đam mê những mùi vị ấy không
ngừng, ngày qua tháng lại, thoáng chốc đã bạc đầu. Cho nên kẻ hậu học chưa nghe
được ý chỉ huyền diệu của Phật Pháp phải học hỏi sâu rộng với các bậc giác ngộ
đi trước, sao lại có thể nói rằng việc xuất gia quý ở nơi cầu cơm no áo ấm?
Đoạn 5
Hán:
佛先制律。啓創發蒙。軌則威儀。淨如氷雪。止持作犯。束斂初心。微細條章。革諸猥弊。毘尼法席。曾未操陪。了義上乘。豈能甄別。可惜一生空過。後悔難追。教理未嘗措懷。玄道無因契悟。
Hán-Việt:
Phật tiên chế luật,
khải sáng phát mông. Quỹ tắc uy nghi tịnh như băng tuyết. Chỉ trì tác phạm thúc
liễm sơ tâm, vi tế điều chương cách chư ổi tệ. Tỳ ni pháp tịch tằng vị thao
bồi, liễu nghĩa thượng thừa khởi năng chân biệt. Khả tích nhất sanh không quá,
hậu hối nan truy. Giáo lý vị thường thác hoài, huyền đạo vô nhân khế ngộ.
Việt:
Phật
trước chế luật để mở sáng chỗ tối tăm. Phép tắc oai nghi sạch như băng tuyết. Theo
nguyên tắc ngưng là giữ, làm là phạm (chỉ
trì tác phạm) để kiềm chế kẻ sơ tâm, dùng nhiều điều luật vi tế để trừ bỏ
các điều xấu tệ. Nơi truyền dạy giới luật chưa hề thân cận tu tập thì đối với
pháp Liễu Nghĩa Tối Thượng Thừa làm sao có thể lãnh hội được? Đáng tiếc một đời
bỏ qua vô ích, về sau hối hận cũng không kịp. Giáo lý chưa từng để lòng thì Đạo
sâu xa không nhân đâu mà khế ngộ được!
Đoạn 6
Hán:
及至年高臘長。空腹高心。不肯親附良朋。惟知倨傲。未諳法律。戢斂全無。或大語高聲。出言無度。不敬上中下座。
婆羅門聚會無殊。椀鉢作聲。食畢先起。去就乖角。僧體全無。起坐忪諸。動他心念。不存些些軌則。小小威儀。將何束斂後昆。新學無因倣傚。
Hán-Việt:
Cập chí niên cao lạp
trưởng, không phúc cao tâm, bất khẳng thân phụ lương bằng, duy tri cứ ngạo, vị
am pháp luật, tập liễm toàn vô. Hoặc đại ngữ cao thanh, xuất ngôn vô độ. Bất
kính thượng trung hạ tọa, Bà la môn tụ hội vô thù. Oản bát tác thanh, thực tất
tiên khởi. Khứ tựu quai giác, tăng thể toàn vô, khởi tọa chung chư, động tha
tâm niệm. Bất tồn ta ta quỹ tắc, tiểu tiểu uy nghi, tương hà thúc liễm hậu côn,
tân học vô nhân phỏng hiệu.
Việt:
Cho
đến tuổi đời, tuổi Hạ đều cao, mà bụng rỗng tâm cao, chẳng chịu thân cận bạn
lành, chỉ biết nghênh ngang kêu ngạo, chưa thông giáo pháp và giới luật, nên sự
thúc liễm toàn không. Hoặc lời cao tiếng lớn, nói năng vô phép. Chẳng kính các
bậc Thượng, Trung, Hạ tọa, chẳng khác gì sự tụ hội của các Bà La Môn. Khua bát
ra tiếng, ăn rồi dậy trước, đến đi trái phép, tăng thể toàn không, đứng ngồi
lăng xăng, làm động niệm tâm người. Chẳng còn một chút phép tắc, một tí oai
nghi nào, thì lấy gì để thúc liễm hậu bối? Còn kẻ mới học cũng không nhân đâu
mà noi theo được!
Đoạn 7
Hán:
纔相覺察。便言我是山僧。未聞佛教行持。一向情存粗糙。
如斯知見。蓋爲初心慵惰。饕餮因循。荏苒人間遂成疎野。
不覺躘踵老朽。觸事面牆。後學咨詢。無言接引。縱有談說。不涉典章。或被輕言。便責後生無禮。瞋心忿起言語該人。
Hán-Việt:
Tài tương giác sát,
tiện ngôn ngã thị sơn tăng. Vị văn Phật giáo hành trì, nhất hướng tình tồn thô
tháo. Như tư tri kiến, cái vị sơ tâm dung đọa, thao thiết nhân tuần, nhẫm nhiễm
nhân gian toại thành sơ dã. Bất giác lủng chủng lão hủ, xúc sự diện tường. Hậu
học tư tuân, vô ngôn tiếp dẫn. Túng hữu đàm thuyết, bất thiệp điển chương. Hoặc
bị khinh ngôn, tiện trách hậu sinh vô lễ, sân tâm phẫn khởi, ngôn ngữ cai nhân.
Việt:
Vừa
được người cảnh giác cho thì liền bảo “Ta
là Sơn Tăng.” Chưa nghe lời Phật dạy để hành trì, một bề giữ tính vụng về
lỗ mãng. Thấy biết như thế là bởi vì cái tâm lúc đầu lười biếng, theo thói tham
ăn, thấm thoát chạy theo người đời, trở thành kẻ hoang dại thô tục. Chẳng hay
lụm cụm già yếu, gặp việc thì xoay mặt vào vách. Hậu học thưa hỏi cũng không có
lời gì để dẫn dắt. Dù giảng nói cũng không có liên quan tới kinh điển. Hoặc bị
khinh chê thì liền trách hậu sinh vô lễ, tâm sân nổi dậy, lớn tiếng nạt người.
Đoạn 8
Hán:
一朝臥疾在牀。衆苦縈纏逼迫。曉夕思忖。心裏恛惶。前路茫茫。未知何往。從茲始知悔過。臨渴掘井奚爲。自恨蚤不預修。年晚多諸過咎。臨行揮霍。怕怖慞惶。縠穿雀飛。識心隨業。如人負債。强者先牽。心緒多端。重處偏墜。無常殺鬼念念不停。命不可延。時不可待。人天三有應未免之。如是受身非論刼數。
Hán-Việt:
Nhất triêu ngọa tật
tại sàng, chúng khổ oanh triền bức bách, hiểu tịch tư thỗn, tâm lý hồi hoàng.
Tiền lộ mang mang, vị tri hà vãng. Tùng tư thỉ tri hối quá, lâm khát quật tỉnh
hề vi. Tự hận tảo bất dự tu, niên vãn đa chư quá cựu, lâm hành huy hoắc, phạ bố
chương hoàng. Hộc xuyên tước phi, thức tâm tùy nghiệp. Như nhân phụ trái, cường
giả tiên khiên, tâm tự đa đoan, trọng xứ thiên trụy. Vô thường sát quỷ niệm
niệm bất đình, mạng bất khả diên, thời bất khả đãi. Nhân thiên tam hữu ưng vị
miễn chi, như thị thọ thân phi luận kiếp số.
Việt:
Một
mai bệnh nằm trên dường, các khổ quay quanh bức bách, sớm tối lo nghĩ, trong
lòng lo sợ bồi hồi. Đường ở phía trước mịt mờ, chẳng biết về đâu. Đến đây mới
biết hối lỗi, đợi khát mới đào giếng để làm gì? Tự hận sớm chẳng lo tu, đến
tuổi xế chiều nhiều điều tội lỗi, khi sắp ra đi thì sự sống tan rã nhanh chóng,
nên sợ hãi kinh hoàng. Giống như lụa lủng thì chim sẻ bay ra, thân chết rồi thì
tâm thức đi theo nghiệp. Như kẻ thiếu nợ, ai mạnh theo trước, tâm tạo nhiều
nghiệp, nặng đâu rơi đó. Con quỷ vô thường giết người không ngừng trong mỗi
niệm, mạng sống chẳng thể kéo dày, thời gian không thể đợi chờ. Ba cõi, trời
người chưa thoát khỏi được thì cứ như vậy mà thọ thân mãi số kiếp chẳng thể
tính bàn.
Đoạn 9
Hán:
感傷歎訝。哀哉切心。豈可緘言。遞相警策。所恨同生像季。去聖時遙。佛法生疎。人多懈怠。畧伸管見。以曉後來。若不捐矜。誠難輪逭。
Hán-Việt:
Cảm thương thán nhạ,
ai tai thiết tâm, khởi khả giam ngôn, đệ tương cảnh sách. Sở hận đồng sanh
tượng quý, khứ Thánh thời diêu, Phật pháp sanh sơ, nhân đa giải đãi, lược thân
quản kiến dĩ hiểu hậu lai. Nhược bất quyên căng, thành nan luân hoán.
Việt:
Lạ
lùng thương cảm, đau xót lòng thay! Đâu thể làm thinh, cho nên cảnh sách lẫn
nhau. Tủi vì chúng ta đồng sanh vào thời Tượng Pháp, cách Thánh (Phật) đã xa,
Phật pháp trở nên lờ mờ, nhiều người giải đãi, do vậy lược bày cái thấy nhỏ hẹp
của mình để khuyên bảo những người hậu học. Nếu chẳng bỏ tính kêu căng, thì
thật khó mà thay đổi được.
Đoạn 10
Hán:
夫出家者。發足超方。心形異俗。紹隆聖種。震懾魔軍。用報四恩。拔濟三有。若不如此。濫廁僧倫。言行荒疎。虚霑信施。昔年行處寸步不移。恍惚一生。將何憑恃。况乃堂堂僧相。容貌可觀。皆是宿植善根。感斯異報。便擬端然拱手。不貴寸陰。事業不勤。功果無因克就。豈可一生空過。抑亦來業無裨。
Hán-Việt:
Phù xuất gia giả, phát
túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân,
dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Nhược bất như thử, lạm xí tăng luân, ngôn hạnh
hoang sơ, hư triêm tín thí, tích niên hành xứ thốn bộ bất di, hoảng hốt nhất
sanh, tương hà bằng thị. Huống nãi đường đường tăng tướng, dung mạo khả quan,
giai thị túc thực thiện căn cảm tư dị báo, tiện nghĩ đoan nhiên củng thủ, bất
quí thốn âm. Sự nghiệp bất cần, công quả vô nhân khắc tựu, khởi khả nhất sanh
không quá, ức diệc lại nghiệp vô tì.
Việt:
Phàm
là người xuất gia, thì phải cất bước vượt tới chỗ sâu xa (chân lý Đại Thừa),
tâm hình khác tục, kế thừa và hưng thịnh dòng Thánh (Phật), nhiếp phục ma quân
(vọng tâm), nhằm báo đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi. Nếu không như thế, thì chỉ là
kẻ lạm dụng xen lẫn trong hàng tăng chúng, ngôn hạnh chẳng đầy đủ, uổng nhận sự
cúng dường của tín thí. Chỗ đi năm trước, một bước chẳng dời, mờ mịt một đời,
lấy gì nương tựa? Huống chi, đường đường mang tướng một vị tăng, dung mạo tốt
đẹp, đều là do đời trước gieo trồng căn lành nên đời nay mới cảm được quả báo
đặc biệt như thế. Vậy mà chỉ nghĩ đến việc khoanh tay ngồi yên, chẳng biết quý
tiếc thời gian ngắn ngủi. Đạo nghiệp không chịu nỗ lực thực hành thì Đạo quả
không nhân đâu mà thành tựu. Chẳng những một đời này luống qua, mà những việc
của đời sau cũng thành vô ích.
Đoạn 11
Hán:
辭親决志披緇。意欲等超何所。曉夕思忖。豈可遷延過時。
心期佛法棟梁。用作後來龜鏡。常以如此。未能少分相應。
Hán-Việt:
Từ thân quyết chí phi
tri, ý dục đẳng siêu hà sở, hiểu tịch tư thỗn, khởi khả thiên diên quá thời.
Tâm kỳ Phật pháp đống lương, dụng tác hậu lai qui cảnh, thường dĩ như thử, vị
năng thiểu phần tương ưng.
Việt:
Từ
giả thân quyến quyết chí khoác áo người tu, là ý muốn vượt trên chỗ nào? Sớm
tối nghĩ suy việc ấy (giác ngộ giải thoát) thì đâu thể dây dưa cho mất thời
giờ. Trong lòng tự hứa sẽ làm trụ cột cho Phật Pháp, gương mẫu cho đời sau, thường
nghĩ như thế đó mà còn chưa được chút phần tương ưng với việc xuất gia (huống
là chưa nghĩ tới hay sao?).
Đoạn 12
Hán:
出言須涉於典章。談說乃傍於稽古。形儀挺特。意氣高閒。
Hán-Việt:
Xuất ngôn tu thiệp ư
điển chương, đàm thuyết nãi bàng ư kê cổ. Hình nghi đĩnh đặc, ý khí cao nhàn.
Việt:
Nói
ra phải phù hợp với kinh điển, luận bàn phải dựa theo khuôn mẫu của người xưa. Hình
dáng phải trang nghiêm tề chỉnh, tâm chí phải thong dong siêu thoát.
Đoạn 13
Hán:
遠行要假良朋。數數清於耳目。伷住止必須擇伴。時時聞於未聞。故云。生我者父母。成我者朋友。親附善者。如霧露中行。雖不濕衣。時時有潤。狎習惡者。長惡知見。曉夕造惡。即目交報。歿後沉淪。一失人身萬刼不復。
Hán-Việt:
Viễn hành yếu giả
lương bằng, sác sác thanh ư nhĩ mục, trú chỉ tất tu trạch bạn, thời thời văn ư
vị văn. Cố vân, sanh ngã giả phụ mẫu, thành ngã giả bằng hữu. Thân phụ thiện
giả, như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận; hiệp tập ác
giả, trưởng ác tri kiến, hiểu tịch tạo ác, tức mục giao báo, một hậu trầm luân,
nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục.
Việt:
Đi
xa cần nương bạn tốt, để thường lọc sạch tai mắt, trú ở cần phải chọn bạn để
thường nghe những điều chưa nghe. Nên nói: “Sanh
ta ra là do cha mẹ, làm nên ta là do bằng hữu.” Gần gũi người lành như đi
trong sương móc, tuy không ướt áo nhưng lúc nào cũng được thấm nhuần. Quen gần
kẻ ác thì thêm lớn những tri kiến ác, sớm tối làm ác thì phải chịu quả báo
trước mắt, sau khi chết đi thì phải chịu trầm luân, một khi mất thân người thì
vạn kiếp khó mà khôi phục lại được.
Đoạn 14
Hán:
忠言逆耳。豈不銘心者哉。便能澡心育德。晦跡韜名。蘊素精神。喧囂止絕。
Hán-Việt:
Trung ngôn nghịch nhĩ,
khởi bất minh tâm giả tai? Tiện năng tháo tâm dục đức, hối tích thao danh, uẩn
tố tinh thần, huyên hiêu chỉ tuyệt.
Việt:
Lời
ngay trái tai, sao chẳng ghi lòng tạc dạ? Như thế thì mới có thể rửa tâm nuôi
đức, ẩn tích mai danh, giữ cho tinh thần sạch trong, dứt hết sự ồn náo (nơi tâm).
Đoạn 15
Hán:
若欲叅禪學道。頓超方便之門。心契玄津。研機精要。决擇深奥。啟悟真源。博問先知。親近善友。此宗難得其妙。切須仔細用心。可中頓悟正因。便是出塵階漸。此則破三界二十五有。内外諸法盡知不實。從心變起悉是假名。不用將心湊泊。但情不附物。物豈礙人。任他法性周流。莫斷莫續。
聞聲見色蓋是尋常。這邊那邊應用不闕。
Hán-Việt:
Nhược dục tham thiền
học đạo, đốn siêu phương tiện chi môn, tâm khế huyền tân, nghiên cơ tinh yếu,
quyết trạch thâm áo, khải ngộ chân nguyên, bác vấn tiên tri, thân cận thiện
hữu, thử tông nan đắc kỳ diệu, thiết tu tử tế dụng tâm, khả trung đốn ngộ chánh
nhân, tiện thị xuất trần giai tiệm. Thử tắc phá tam giới nhị thập ngũ hữu, nội
ngoại chư pháp tận tri bất thật, tùng tâm biến khởi, tất thị giả danh; bất dụng
tương tâm tấu bạc, đãn tình bất phụ vật, vật khởi ngại nhân; nhậm tha pháp tánh
châu lưu, mạc đoạn mạc tục, văn thanh kiến sắc cái thị tầm thường, giá biên na
biên ứng dụng bất khuyết.
Việt:
Nếu
muốn tham Thiền học Đạo, chóng vượt qua các cửa phương tiện, thì tâm phải đến
tới bờ mé sâu thẩm của ý thức (thoại đầu), tham cứu cho rốt ráo chỗ tinh yếu
của Đạo, quyết chọn chỗ sâu xa, để mở sáng nguồn chân, tham vấn rộng khắp với
những vị giác ngộ đi trước, thân cận với người lành. Tông nầy khó đạt được chỗ
kỳ diệu của nó nên cần phải khẩn thiết dụng tâm cho tinh tế (miên mật), mới có
thể ngay trong đó mà đốn ngộ chánh nhân, đó chính là thềm bực ra khỏi trần lao.
Theo đó tức là phá sạch hết hai mươi lăm cảnh giới của ba cõi. Tất cả các pháp
trong ngoài trọn biết là không thật, từ tâm biến hiện tức là giả danh. Chẳng
cần đem tâm nương gá nơi đâu, chỉ cần không bám theo vật, thì vật cũng chẳng
chướng ngại được người. Mặc tình cho Pháp Tánh trùm khắp, đừng đoạn dứt cũng
đừng tiếp nối, nghe tiếng thấy sắc đại để đều là việc tầm thường, dù bên này
hay bên kia chỗ ứng dụng chẳng thiếu.
Đoạn 16
Hán:
如斯行止。實不枉披法服。亦乃酬報四恩。拔濟三有。生生若能不退。佛階决定可期。往來三界之賓。出沒爲他作則。
Hán-Việt:
Như tư hành chỉ, thật
bất uổng phi pháp phục, diệc nãi thù báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Sanh sanh nhược
năng bất thoái, Phật giai quyết định khả kỳ. Vãng lai tam giới chi tân, xuất
một vị tha tác tắc.
Việt:
Nếu
chỗ nầy mà làm được thì thật không uổng khoác áo pháp, cũng là báo đền bốn ân,
cứu vớt ba cõi. Đời đời nếu có thể không thoái lui, thì quả Phật quyết định có
thể kỳ vọng. Đến đi làm khách của ba cõi, ra vào đều làm khuôn phép cho người.
Đoạn 17
Hán:
此之一學最妙最玄。但辦肯心。必不相賺。
Hán-Việt:
Thử chi nhất học tối
huyền tối diệu. Đãn biện khẳng tâm, tất bất tương trám.
Việt:
Một
pháp Thiền học nầy rất huyền rất diệu. Chỉ cần có đầy đủ quyết tâm ắt không dối
nhau.
Đoạn 18
Hán:
若有中流之士。未能頓超。且於教法留心。温尋貝葉。精搜義理。傳唱敷揚。接引後來。報佛恩德。時光亦不虚棄。必須以此扶持。住止威儀。便是僧中法器。豈不見倚松之葛。上聳千尋。附託勝因。方能廣益。懇修齋戒。莫謾虧踰。世世生生殊妙因果。
Hán-Việt:
Nhược hữu trung lưu
chi sĩ, vị năng đốn siêu, thả ư giáo pháp lưu tâm, ôn tầm bối diệp, tinh sưu
nghĩa lý, truyền xướng phu dương, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức. Thời quang
diệc bất hư khí, tất tu dĩ thử phù trì. Trú chỉ uy nghi, tiện thị Tăng trung
pháp khí. Khởi bất kiến ỷ tùng chi cát, thượng túng thiên tầm, phụ thác thắng
nhân phương năng quảng ích. Khẩn tu trai giới, mạc man khuy du. Thế thế sanh
sanh thù diệu nhân quả.
Viết:
Nếu
có người căn cơ ở bậc Trung, không thể ngay nơi pháp đốn ngộ nầy mà vượt thoát,
thì nên ở nơi giáo pháp mà lưu tâm, tìm học kinh giáo, nghiên cứu nghĩa lý cho
rõ ràng, truyền bá rộng khắp, tiếp đón diều dắt người đời sau, để báo đền ân
đức của Phật. Thời giờ cũng đừng bỏ qua, cần phải lấy những việc đó làm chỗ
nương tựa và giữ gìn. Đi đứng oai nghi, mới chính là bậc pháp khí trong hàng
tăng chúng. Há chẳng thấy dây sắn nương cây tùng mà vươn lên cao ngàn thước,
nương nhờ cái nhân thù thắng mới có thể đạt được nhiều lợi ích. Phải chân thành
tu hành giữ gìn trai giới, đừng có khinh thường mà bỏ qua. Có như vậy thì đời
đời kiếp kiếp sẽ được cái nhân quả vô cùng tốt đẹp.
Đoạn 19
Hán:
不可等閒過日。兀兀度時。可惜光陰不求升進。徒消十方信施。亦乃孤負四恩。積累轉深。心塵易壅。觸途成滯。人所輕欺。
Hán-Việt:
Bất khả đẳng nhàn quá
nhật, ngột ngột độ thời, khả tích quang âm, bất cầu thăng tiến. Đồ tiêu thập
phương tín thí, diệc nãi cô phụ tứ ân. Tích lũy chuyển thâm, tâm trần dị ủng,
xúc đồ thành trệ, nhân sở khinh khi.
Việt:
Không
thể ngồi không qua ngày, lơ mơ qua giờ, đáng tiếc cho ngày tháng qua mau, sao
chẳng cầu thăng tiến trên đường Đạo? Uổng hao của mười phương tín thí, cũng là
cô phụ bốn ân. Tích chứa cho nhiều thì tâm dễ bị bụi trần che lấp, nên làm việc
gì cũng chẳng xong, bèn bị người khinh chê.
Đoạn 20
Hán:
古云。彼旣丈夫。我亦爾。不應自輕而退屈。若不如此。徒在緇門。荏苒一生殊無所益。
Hán-Việt:
Cổ vân, bỉ ký trượng
phu, ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh nhi thoái khuất. Nhược bất như thử, đồ tại
tri môn, nhẫm nhiễm nhất sanh, thù vô sở ích.
Việt:
Người
xưa nói: “Kia đã là bậc trượng phu thì ta
cũng thế” chẳng nên tự khinh chê mà lùi bước khuất phục. Nếu chẳng như thế,
luống ở cửa chùa, thấm thoát một đời, quyết không lợi ích.
Đoạn 21
Hán:
伏望興决烈之志。開特達之懷。舉措看他上流。莫擅隨於庸鄙。今生便須决斷。想料不由別人。息意忘緣。不與諸塵作對。心空境寂。只爲久滯不通。
Hán-Việt:
Phục vọng hưng quyết
liệt chi chí, khai đặc đạt chi hoài, cử thác khán tha thượng lưu, mạc thiện tùy
ư dung bỉ. Kim sanh tiện tu quyết đoán, tưởng liệu bất do biệt nhân. Tức ý vong
duyên, bất dữ chư trần tác đối. Tâm không cảnh tịch, chỉ vị cửu trệ bất thông.
Việt:
Kính
mong các vị khởi lên cái chí quyết liệt, mở ra cái tâm thông suốt khác người, tất
cả việc làm phải nhìn theo bậc Thượng kia, chớ chuyên theo với kẻ tầm thường.
Ngay nơi đời nầy cần phải đoạn dứt sanh tử, tự mình lo liệu chẳng do người
khác. Dứt ý quên duyên, chẳng cùng các trần làm bạn. Tâm cảnh vốn không tịch,
chỉ vì ngăn trệ đã lâu nên không thông suốt được.
Đoạn 22
Hán:
熟覽斯文。時時警策。强作主宰。莫徇人情。業果所牽。誠難逃避。聲和響順。形直影端。人果歴然。豈無憂懼。故經云。假使百千刼所作業不亡。因緣會遇時。果報還自受。故知三界刑罰。縈絆殺人。努力勤修。莫空過日。
Hán-Việt:
Thục lãm tư văn, thời
thời cảnh sách, cưỡng tác chủ tể, mạc tuẫn nhân tình. Nghiệp quả sở khiên,
thành nan đào tị, thanh hòa hưởng thuận, hình trực ảnh đoan, nhân quả lịch
nhiên, khởi vô ưu cụ. Cố kinh vân, giả sử bách thiên kiếp, sở tác nghiệp bất
vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ. Cố tri tam giới hình phạt
oanh bán sát nhân, nỗ lực cần tu, mạc không quá nhật.
Việt:
Hãy
đọc cho kỹ bài văn nầy để thường thường nhắc nhở và sách tấn lấy mình. Hãy tận
sức mà làm chủ lấy mình, đừng thuận theo tình người. Nghiệp quả ràng buộc lôi
kéo thật khó trốn tránh, cũng như tiếng hòa thì âm vang, hình thẳng thì bóng
ngay. Nhân Quả rõ ràng như thế, há không lo sợ!? Cho nên kinh nói: “Giả sử trăm ngàn kiếp, nghiệp đã làm không
mất, khi nhân duyên hội hợp, quả báo lại tự chịu”. Nên biết sự hình phạt
của ba cõi là trói buộc và giết người, vậy phải nổ lực gắng tu, chớ bỏ không qua
ngày!
Đoạn 23
Hán:
深知過患。方乃相勸行持。願百刼千生。處處同爲法侶。
Hán-Việt:
Thâm tri quá hoạn,
phương nãi tương khuyến hành trì. Nguyện bách kiếp thiên sanh, xứ xứ đồng vi
pháp lữ, nãi vi minh viết:
Việt:
Biết
rõ được sự tai hại của tội lỗi, cho nên khuyên nhau hành trì. Nguyện trăm kiếp
ngàn đời, dù ở nơi đâu cũng cùng làm bạn pháp.
Đoạn 24
Hán:
乃爲銘曰:
1.
幻身夢宅。
空中物色。
前際無窮。
後際寧尅。
2.
出此沒彼。
升沉疲極。
未免三輪。
何時休息。
3.
貪戀世間。
陰緣成質。
從生至老。
一無所得。
4.
根本無明。
因茲被惑。
光陰可惜。
刹那不測。
5.
今生空過。
來世窒塞。
從迷至迷。
皆因六賊。
6.
六道往還。
三界匍匐。
早訪明師。
親近高德。
7.
决擇身心。
去其荆棘。
世自浮虚。
衆緣豈逼。
8.
研窮法理。
以悟爲則。
心境俱捐。
莫記莫憶。
9.
六根怡然。
行住寂默。
一心不生。
萬法俱息。
Hán-Việt:
Nãi vi minh viết:
1.
Huyễn thân mộng trạch
Không trung vật sắc
Tiền tế vô cùng
Hậu tế ninh khắc?
2.
Xuất thử một bỉ
Thăng trầm bì cực
Vĩ miễn tam luân
Hà thời hưu tức?
3.
Tham luyến thế gian
Ấm duyên thành chất
Tùng sanh chí lão
Nhất vô sở đắc.
4.
Căn bản vô minh
Nhân tư bị hoặc
Quang âm khả tích
Sát na bất trắc.
5.
Kinh sanh không quá
Lai thế trất tắc
Tùng mê chí mê
Giai nhân lục tặc.
6.
Lục đạo vãng hoàn
Tam giới bồ bặc
Tảo phóng minh sư
Thân cận cao đức.
7.
Quyết trạch thân tâm
Khử kỳ kinh cức
Thế tự phù hư
Chúng duyên khởi bức?
8.
Nghiên cùng pháp lý
Dĩ ngộ vi tắc
Tâm cảnh câu quyên
Mạc ký mạc ức.
9.
Lục căn dĩ nhiên
Hành trú tịch mặc
Nhứt tâm bất sanh
Vạn pháp câu tức.
Việt:
Nên làm bài minh rằng:
1.
Thân huyễn nhà mộng
Vật sắc trong không
Đời trước không cùng
Đời sau đâu ngằn?
2.
Thoát đây chìm kia
Lên xuống nhọc nhằn
Chưa khỏi ba cõi
Bao giờ thôi nghỉ?
3.
Tham luyến thế gian
Ấm, duyên thành chất
Từ sanh đến già
Không được gì cả!
4.
Căn bản vô minh
Nhân đây bị mê
Thời giờ đáng tiếc
Sát-na khó lường.
5.
Đời nầy luống qua
Đời sau bế tắc
Từ mê đến mê
Đều do sáu giặc.
6.
Qua lại sáu đường
Lăn lóc ba cõi
Sớm hỏi minh sư
Thân cận cao đức.
7.
Quyết lọc thân tâm
Bỏ điều gai góc
Đời tự phù hư
Duyên nào ép bức?
8.
Xét cùng pháp lý
Lấy ngộ làm gương
Tâm cảnh đều quên
Không nhớ không nghĩ.
9.
Sáu căn an nhiên
Đứng đi lặng yên
Một tâm không sanh
Muôn pháp đều NHƯ.
Tài
Liệu Tham Khảo
1. Qui Sơn Cảnh Sách
– (Tỉnh Việt Đông, núi Đảnh Hồ, thầy
Sa-môn Thích Hoằng Tán Tại Tham chú giải. Kẻ môn nhân, thầy Tỳ-kheo hiệu Khai
Huýnh làm lời ký). Hòa Thượng Khánh Anh Việt dịch.
2. Quy Sơn Cảnh Sách Văn
– Trích trong quyển “Giới Sa Di và Giới
Sa Di Ni” của Hòa Thượng Trí Quang Việt dịch.
3. Quy Sơn Cảnh Sách
– Hòa Thượng Thanh Từ Việt dịch và giải.
4. Quy Sơn Cảnh Sách
– Cư sĩ Nguyên Minh Tiến Việt dịch.